Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 26/11/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 30/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại hội trường xét xử TAND thị xã Nghi Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 280/2020/TLST- HNGĐ ngày 08/10/2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị A - Sinh năm: 1966 Địa chỉ: Đội H, ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Ông Phạm Văn T - Sinh năm: 1952 Địa chỉ: Thôn X, phường N, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa Tại phiên tòa có mặt ông T, vắng mặt bà A (Bà A có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Về hôn nhân:

* Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2020, bản tự khai ngày 08/10/2020 bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà và ông Phạm Văn T tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (Nay là phường T, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa) năm 1986. Hiện tại bà đã làm mất đăng ký kết hôn, sổ lưu cấp đăng ký kết hôn tại UBND phường T từ năm 1986 trở về trước không còn lưu giữ, còn từ năm 1986 đến nay không có tên bà và ông T nên UBND phường T không có căn cứ để xác nhận việc đăng ký kết hôn giữa bà và ông T.

Sau khi cưới, bà và ông T chung sống hạnh phúc chỉ được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm, lối sống nên mâu thuẫn thường xuyên xảy ra. Tuy đã cố gắng nhường nhịn nhau nhưng cuộc sống hôn nhân của vợ chồng vẫn không thể cải thiện được. Sau 03 tháng chung sống, do không thể chịu đựng được nên bà đã bỏ nhà đi miền Nam để làm ăn. Từ cuối năm 1986 đến nay, bà và ông T sống ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa, ai lo phận người đó. Cả bà và ông T cũng đều đã xây dựng gia đình và có con với người khác. Hiện nay bà đang sinh sống tại đội H, ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Phước.

Nay bà xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được vì cả bà và ông T đã có hạnh phúc riêng. Do đó nguyện vọng của bà là được ly hôn với ông T.

* Tại bản tự khai ngày 08/10/2020 ông Phạm Văn T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị T tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (Nay là phường T, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa) vào năm 1986. Hiện tại đăng ký kết hôn đã bị mất, hiện nay sổ lưu cấp đăng ký kết hôn tại UBND phường T từ năm 1986 trở về trước không còn lưu giữ, còn từ năm 1986 đến nay không có tên ông và bà A nên nên UBND phường T không có căn cứ để xác nhận việc đăng ký kết hôn giữa ông và bà A.

Sau khi cưới, ông và bà A chung sống hạnh phúc chỉ được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm, lối sống nên mâu thuẫn thường xuyên xảy ra. Tuy đã cố gắng nhường nhịn nhau nhưng cuộc sống hôn nhân của vợ chồng vẫn không thể cải thiện được. Sau 03 tháng chung sống, do không thể chịu đựng được nên bà đã bỏ nhà đi Miền Nam để làm ăn, từ đó ông và bà A hoàn toàn sống ly thân với nhau từ cuối năm 1986 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau, ai lo phận người đó, cả ông và bà A đều đã xây dựng gia đình với người khác và đều đã có con.

Nay bà A có đơn xin ly hôn thì ông cũng hoàn toàn nhất trí vì xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được do cả ông và bà A đều đã có hạnh phúc riêng.

2. Về con chung: Hai bên đương sự thống nhất không có con chung.

3. Về tài sản: Hai bên đương sự thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của đại điện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 51, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27, tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Về hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn T là vợ chồng.

- Về con chung: Hai bên đương sự thống nhất không có con chung.

- Về tài sản: Hai bên đương sự thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét.

- Án phí: Bà A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX xét thấy:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bà Nguyễn Thị T không có mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình. Ông Phạm Văn T có mặt tại phiên tòa và giữ nguyên quan điểm của mình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định.

[2] Về hôn nhân: Xác định quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông T là hôn nhân bất hợp pháp. Bởi lẽ, theo như lời khai của chị bà A và ông T thì ông, bà tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn hôn tại UBND xã T (nay là phường T) vào năm 1986, nhưng trong quá trình chung sống ông, bà đã làm mất đăng ký kết hôn nên không cung cấp được cho Tòa án.

Biên bản xác minh ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn tại UBND phường T (trước đây là xã T) ở phần kết quả xác minh thể hiện: Qua kiểm tra sổ lưu trữ sổ hộ tịch (đăng ký kết hôn) tại UBND phường T từ năm 1986 trở về trước không còn sổ lưu, từ năm 1986 đến nay không có trường hợp nào có tên Nguyễn Thị T và Phạm Văn T, do đó UBND phường T không có căn cứ để xác định ông T và bà A có đăng ký kết hôn tại UBND phường T hay không.

Do đó cho đến thời điểm xét xử, không có tài liệu nào chứng minh việc bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn T có đăng ký kết hôn.

Quá trình chung sống cả hai đều thừa nhận sau khi cưới vợ chồng sống chỉ sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống nên trong cuộc sống của vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Tuy ông, bà đã cố gắng nhường nhịn nhau nhưng cuộc sống hôn nhân của vợ chồng vẫn không thể cải thiện được. Sau 03 tháng chung sống, do không thể chịu đựng được nên bà A đã bỏ nhà đi Miền Nam để làm ăn, từ đó bà A và ông T hoàn toàn sống ly thân với nhau từ cuối năm 1986 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau, ai lo phận người đó, hiện tại cả bà A và ông T đều đã xây dựng gia đình với người khác và đều đã có con. Nay cả bà A và ông T đều xác định mục đích hôn nhân không thể đạt được vì mỗi người đều có cuộc sống riêng nên thống nhất đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn.

Từ những căn cứ trên, HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 9 Luật HNGĐ và khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật hôn nhân và gia đình, không công nhận và Tuyết và ông T là vợ chồng.

[3] Về con chung: Hai bên đương sự thống nhất không có con chung.

[4] Về tài sản: Hai bên đương sự thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Trong vụ án này, bà A phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Dành quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 51, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27, tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Về hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị T và ông Phạm Văn T là vợ chồng.

- Về con chung: Hai bên đương sự thống nhất không có con chung.

- Về tài sản: Hai bên đương sự thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0004959 ngày 08/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Nghi Sơn. Bà A đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt ông T, vắng mặt bà A tại phiên tòa. Tuyên bố ông T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bà A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 26/11/2020 về ly hôn

Số hiệu:30/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về