Bản án 30/2019/HSST ngày 29/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 30/2019/HSST NGÀY 29/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 3 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2019/HSST ngày 21 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ka Th; Tên gọi khác: không; sinh năm: 1983; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT và nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Châu Mạ; tôn giáo: Công giáo; trình độ văn hóa: Không biết chữ; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông: K’B (chết); Con bà: Ka Ngh (chết); chồng: K’Br, sinh năm 1978 (chết) và có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2017 hiện đang ở tại xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 25/12/2013, Ka Th bị Tòa án nhân dân TP. B xử phạt 30 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 142/2013/HSST, hiện đang được hoãn chấp hành hình phạt tù đến ngày 27/11/2020 do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, chưa được xóa án tích. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lương Minh Tr, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

- Bị hại: K H, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn M, xã L, huyện. B, tỉnh Lâm Đồng, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 20/11/2018, Ka Th bế theo con gái là cháu Ka H, sinh năm 2017, đi từ trong chợ mới B ra cổng phía Tây Bắc, thuộc phường N, TP. B, thấy xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số: 49H1-30589, màu đỏ - đen của chị Ka H, trú tại thôn C, xã L, huyện B đang dựng trước sân chợ, không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Ka Th dùng tay lắc cổ xe mô tô biển số: 49H1-30589 thấy xe không khóa cổ nên dắt xe mô tô đến gần quán karaoke I tại Phường M, TP. B thì dựng xe, vào quán xin nước uống. Khi Ka Th quay ra vị trí để xe mô tô thì bị người dân phát hiện và bắt giữ cùng tang vật là xe mô tô biển số: 49H1-30589.

Theo Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 114 ngày 27/11/2018 của Hội đồng định giá Tp.B xác định: Xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 49H1-30589 trị giá 12.900.000 đồng.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số: 49H1-30589 cho chủ sở hữu là ông K’D, trú tại xã L huyện B, tỉnh Lâm Đồng (bố của chị Ka H). Do đã nhận lại xe nên chị Ka H không yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không có thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng. Bị cáo nhận thức hành vi nêu trên là vi phạm pháp luật.

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKSBL ngày 18 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Ka Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Ka Th đã lén lút trộm cắp của chị Ka H 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số: 49H1-30589 trị giá 12.900.000 đồng. Hành vi của Ka Th đã vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, do đó đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Ka Th từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt với bản án số 142/2013/HSST ngày 25/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố B, Lâm Đồng và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội do lạc hậu quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và các tình tiết khác như bị cáo là người dân tộc thiểu số, thuộc hộ nghèo, nhận thức pháp luật hạn chế do không biết chữ, mục đích trộm cắp tài sản là để sử dụng, là lao động chính trong gia đình đang nuôi 05 người con nhỏ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để áp dụng mức hình phạt thấp nhất đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Ka Th đã có hành vi lợi dụng sơ hở của người khác lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 12.900.000đ (mười hai triệu chín trăm ngàn đồng). Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình thuộc hộ nghèo, nhận thức pháp luật hạn chế do không biết chữ, là lao động chính trong gia đình đang nuôi 05 người con nhỏ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo đang được hoãn chấp hành án phạt tù do vậy cần tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với bị cáo theo khoản 2 Điều 56 BLHS. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dung tình tiết: Phạm tội do lạc hậu quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ trước đây bị cáo đã từng phạm tội, đã bị Tòa án xét xử với mức án 30 tháng tù nhưng được hoãn chấp hành hình phạt tù do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, nay bị cáo tiếp tục phạm tội nên không thể coi lần phạm tội này là do lạc hậu.

Xét thấy: Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tính răn đe, giáo dục.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[4]. Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Ka Th phạm tội “ Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Ka Th 09 (chín) tháng tù, tổng hợp với hình phạt 30 (ba mươi) tháng tù tại bản án số 142/2013/HSST ngày 25/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố B, Lâm Đồng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 39 (ba mươi chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 22/5/2013 đến ngày 04/7/2013 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Ka Th được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HSST ngày 29/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về