Bản án 30/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 184/2018/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/QĐXX-ST ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thị Thu T, sinh năm 1989 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; hộ khẩu thường trú: Khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; chỗ ở: Khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu D, sinh năm 1962 và bà Lê Thị Thu H; bị cáo có 01 con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/7/2018. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1982; địa chỉ: Khu phố M, xã N, huyện O, tỉnh Nam Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 01/7/2018, Lê Thị Thu T đi xuống khu vực ngã tư Giếng nước thuộc TP.Vũng Tàu gặp một người đàn ông tên Tý (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 1.300.000 đồng tiền ma túy. Tý bán cho T 20 (hai mươi) ống nhựa hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng. T mang về phòng trọ của mình ở KP. P, P.Đ cất giấu.

Đến khoảng 06 giờ ngày 02/7/2018, T đã bán cho Nguyễn Văn L 01 ống ma túy với giá 100.000 đồng (một trăm ngàn đồng) tại khu vực chợ V, phường Đ.

Lúc 09 giờ ngày 02/7/2018, Đội CSĐTTP về KT-MT Công an thị xã Phú Mỹ phối hợp với Công an phường Đ kiểm tra phòng trọ của T tại khu phố P phát hiện và thu giữ 19 (mười chín) ống nhựa hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng đựng trong túi vải màu xám và 01 (một) gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt để trên tấm đệm trong phòng. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong số ma túy theo quy định.(BL07-10)

Tại Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Mỹ, T khai nhận 19 (mười chín) ống nhựa hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroin, T mua của Tý về để bán lại cho các con nghiện khác nhằm mục đích kiếm lời. Còn 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt T khai là của hai người tên Tuấn, My (không rõ nhân thân, lai lịch) đến mượn phòng trọ của T để chơi ma túy và để quên, không phải ma túy của T. Tuy nhiên, sau đó T đã khai nhận lại số ma túy trên là của T, tàng trữ nhằm mục đích bán cho các con nghiện kiếm lời. Đồng thời Lê Thị Thu T khai nhận đã bán ma túy cho Nguyễn Văn L từ 05-06 lần, mỗi lần 01 ống với giá từ 90.000 đồng – 100.000 đồng. Ngoài ra, T còn bán ma túy cho nhiều đối tượng khác nhưng không rõ nhân thân, lai lịch.(BL18-23)

Theo Kết luận giám định số 211/QĐMT-PC54 ngày 19/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BR-VT kết luận:

1. Mẫu chất bột màu trắng chứa trong 19 (mời chín) ống nhựa, hàn kín hai đầu (Mẫu A1), được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng (số thứ tự 01), có hình dấu của Công an phường Đ– Công an thị xã Phú Mỹ, tỉnh BR-VT; cùng các chữ ký ghi họ tên: Lê Đình Hội, Nguyễn Văn Dương, Lê Thị Thu T, Đặng Văn Tuyền, Nguyễn Tiến Dũng gửi đến giám định có khối lượng là 1,2568 gam là chất ma túy, loại Heroine. 

2. Mẫu chất kết tinh không màu, trong suốt chứa trong 01 (một) gói nilon hàn kín (Mẫu A2), niêm phong đựng trong phong bì màu trắng (số thứ tự 02) có hình dấu của Công an Phường Tân Phước – Công an thị xã Phú Mỹ, tỉnh BR-VT cùng hình dấu và các chữ ký ghi như mục 1 gửi đến giám định có khối lượng là 0,1425 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối tượng tên Tý (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy cho T, hiện Cơ quan Công an đang tiếp tục điều tra, khi nào bắt giữ được sẽ xử lý sau.

Hai đối tượng tên Tuấn, My (không rõ nhân thân, lai lịch) là hai đối tượng liên quan trong vụ án, hiện Cơ quan Công an đang tiếp tục xác minh khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Văn L, sau khi mua được số ma túy trên từ T đã sử dụng hết, tài liệu chứng cứ thu thập được chưa đủ cơ sở để xử lý L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định. Qua test nước tiểu cho kết quả dương tính với chất ma túy, do đó Cơ quan Công an thị xã Phú Mỹ đã ra Quyết định số 33/QĐ-XPVPHC ngày 02/7/2018 xử phạt vi phạm hành chính Nguyễn Văn L về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền 750.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: 02 (hai) phong bì màu trắng, niêm phong đề số 211/1 và 211/2 ngày 19/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, bên trong chứa mẫu vật sau giám định gửi trả và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Các vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ bảo quản, chờ xử lý theo quy định.

Tại Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 19/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ truy tố bị cáo Lê Thị Thu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa,:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ đã phân tích, đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi của bị cáo gây ra; phân tích nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự ăm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu T từ 08 (Tám) năm đến 08 (Tám) năm 06 (Tháng) tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

+ Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 02 (hai) phong bì màu trắng, niêm phong đề số 211/1 và 211/2 ngày 19/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bên trong chứa mẫu vật sau giám định gửi trả.

Đề nghị tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Thị Thu T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến hoặc khiếu nại gì kết quả giám định cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh, không oan; bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong vụ án này đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo Lê Thị Thu T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 06 giờ ngày 02/7/2018, T đã bán cho Nguyễn Văn L 01 ống ma túy với giá 100.000 đồng (một trăm ngàn đồng) tại khu vực chợ V, phường Đ. Hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đồng thời tại Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thị xã Phú Mỹ Lê Thị Thu T khai nhận trước đó bị cáo đã bán ma túy cho Nguyễn Văn L từ 05-06 lần, mỗi lần 01 ống với giá từ 90.000 đồng – 100.000 đồng, lời khai này phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn Tâm có trong hồ sơ. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2, Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra:

[3.1] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[3.2] Tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra:

Hành vi phạm tội bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác liên quan đến ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[3.3] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã khai ra hành vi phạm tội trước đó; bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên áp dụng điểm r, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 02 (hai) phong bì màu trắng, niêm phong đề số 211/1 và 211/2 ngày 19/7/2018 chứa số ma túy còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là phương tiện thực hiện tội phạm nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện ma túy, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, thất nghiệp, không có thu nhập và không có khả năng thi hành án nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm b, Khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Thu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu T 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

[2.1] Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 02 (hai) phong bì màu trắng, niêm phong đề số 211/1 và 211/2 ngày 19/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

[2.2] Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng.

(Vật chứng của vụ án đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo Biên bản giao nhận vật chứng số 28 ngày 21/12/2018 )

3. Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về