Bản án 30/2019/HS-PT ngày 23/04/2019 về tội hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 30/2019/HS-PT NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2019/TLPT-HS, ngày 28/3/2019 đối với bị cáo K’ B; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HSST ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: K’B, tên gọi khác: K’ V, sinh ngày 27 tháng 12 năm 1999, tại Lâm Đồng; nơi DKHKTT và cư trú: số 46 thôn KN, xã BT, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kơ ho; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông K’ Y, sinh năm 1957 (Đã chết) và bà Ka D, sinh năm 1960; vợ: Ka Nhọi, sinh năm 1999; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được điều tra tại ngoại. Có mặt.

Trong vụ án này còn có 07 bị cáo khác; những người bị hại, người liên quan không kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 20/5/2018, Trang Kòn Q, sinh năm 1993, trú tại thôn Kơ Nệt, xã Bảo Thuận, huyện Di Linh đang cùng K’ B, K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 chơi tại quán cà phê, bi da của anh T tại thôn KN, xã BT, huyện Di Linh thì có K’ T, sinh năm 1999; K’ S, sinh ngày 20/02/2001; K’ S1 , sinh ngày 27/4/2002; K’ T1, sinh năm 2001 - đều trú tại: thôn HP, xã BT, huyện Di Linh đến gây sự đòi đánh Trang Kòn Q thì được mọi người can ngăn nên nhóm của K’ T ra về trước.

Sau khi ra về, K’ T rủ K’ S1 và K’ T1, K’ Lý, sinh năm 2000, K’ M, sinh năm 1996 và K’ B3, sinh năm 2001 - đều trú tại thôn HP, xã BT, huyện Di Linh cùng chuẩn bị hung khí để chặn đánh Q, tất cả đồng ý. K’ T chuẩn bị 01 gậy gỗ trên đầu buộc 01 con dao cán nhựa, K’ S1 chuẩn bị 01 con dao, K’ T1 chuẩn bị một gậy gỗ, K’ Lý chuẩn bị 01 con dao rựa; K’ M chuẩn bị 01 con dao rựa, K’ B3 chuẩn bị 01 con dao ngồi sau xe mô tô biển số 49S1-056.03 do K’ T1, sinh ngày 30/8/2001, trú tại Thôn BS, xã Bảo Thuận điều khiển và K’ Đ, sinh ngày 11/4/2003, trú tại thôn HP, xã BT, huyện Di Linh điều khiển xe mô tô biển số 49G1-195.56 đi đến trước quán tạp hóa của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1979, địa chỉ: thôn KN, xã BT, huyện Di Linh thì dựng xe bên đường để chờ Trang Kòn Q đi về thì đánh. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày khi thấy Q cùng K’ B điều khiển xe chạy đến thì nhóm của K’ T chặn đánh nhưng Q điều khiển xe chạy thoát. Lúc này K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K D, K’ Nh và K’ L1 đều là bạn của Q đi từ trong quán ra thấy nhóm K’ T đuổi đánh Quang nên K’ B1, K’ B2 tìm nhặt mỗi người một cây gậy gỗ ở gần quán anh Tèo còn K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 đi đến gần quán của chị Lan thì mỗi người nhặt một cây gỗ thông để ven đường rồi lao vào đánh nhau với nhóm của K’ T. Quá trình đánh nhau K’ M dùng dao mang theo chém trúng vào bả vai bên trái của K’ B1 còn K’ B1 vụt trúng vào phía sau lưng K’ M; K’ T dùng dao chém trúng vào phía trên lông mày mắt trái và chân phải của K’ B2. Quá trình đánh nhau thì K’ T1 và K’ Đ không tham gia đánh nhau mà chỉ đứng ở ngoài xem. Đánh nhau được một lúc thì nhóm của K’ T bỏ chạy vào vườn cà phê, thấy vậy thì K’ T1 và K’ Đ cũng bỏ xe lại và chạy theo. Sau khi không đuổi kịp nhóm của K’ T thì K’ B1 quay lại hô “Đập xe tụi nó đi” thì cả nhóm đồng ý, lúc này K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 dùng gậy đập xe mô tô biển số 49S1-056.03 làm cho bể dàn nhựa và móp méo nhiều chỗ. Lúc này K’ B nghe có đánh nhau nên giấu xe quay lại thì thấy nhóm của K’ B1 đang đập phá xe thì hô “ Đốt xe” K’ B lôi xe ra giữa đường và rút ống dẫn xăng cho xăng chảy ra rồi kêu K’ L đưa quẹt gas để châm lửa đốt. Sau khi châm lửa cháy thì K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 vứt gậy gỗ vào mục đích cho đám cháy to hơn. Hậu quả làm xe mô tô biển số 49S1-056.03 bị cháy hoàn toàn chỉ còn khung sắt. Lúc K’ B đang đi về nghe có người nói còn xe mô tô biển số 49G1-195.56 đang giấu trong vườn thì K’ B tiếp tục quay lại và đi đến vị trí xe rồi rút ống dẫn xăng cho chảy xăng ra rồi châm lửa đốt tiếp. Khi lửa vừa cháy thì có ông K’ B4, sinh năm 1966, trú tại thôn KN, xã BT đi đến hô dập lửa đi thì K’ B cởi áo khoác ra cùng K’ D dập lửa kịp thời nên xe mô tô biển số 49G1-195.56 chỉ bị cháy dây dẫn xăng. Sau đó cả nhóm cùng nhau đưa K’ B1 và K’ B2 đến Trung tâm y tế huyện Di Linh để điều trị vết thương.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh, K’ B, K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 293/KL-HĐĐG ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Di Linh xác định giá trị tài sản thiệt hại của xe mô tô biển số 49S1-056.03 là 5.400.000 đồng; xe mô tô biển số 49G1-195.56 là 100.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 159/2018/TgT ngày 29/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng xác định tổn thương cơ thể của K’ B1 là 10%, tổn thương do vật sắc gây nên.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Di Linh, các bị can K’ B, K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, đã khắc phục hậu quả thiệt hại tài sản do hành vi phạm tội của mình gây ra, người bị hại có đơn xin bãi nại, các bị can phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Vật chứng của vụ án:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 lưỡi dao mũi vát nhọn màu xám, dài 37,5cm, chỗ rộng nhất 4,7cm; 01 con dao dài 45cm, cán gỗ dài 28cm, lưỡi bằng kim loại, mũi nhọn dài 17cm; 01 con dao dài 52cm, cán gỗ dài 27,5cm, lưỡi kim loại có mũi quắm dài 24,5cm; 01 con dao phát dài 114cm, cán gỗ dài, lưỡi kim loại, mũi cong; 01 bật lửa vỏ nhựa đang sử dụng được; 03 mảnh nhựa màu đỏ đen, 01 gậy gỗ dài 70cm; 01 gậy gỗ dài 140cm; 01 gậy gỗ dài 118cm có cột cán dao nhựa màu trắng dài 15cm; 01 gậy gỗ dài 196cm; 01 gậy gỗ dài 65cm; 01 gậy gỗ dài 90cm; 01 gậy gỗ dài 200cm; 01 gậy gỗ dài 80 cm; 01 khung xe mô tô biển số 49S1-056.03 đã bị cháy đen.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, các bị cáo đã cùng nhau khắc phục hậu quả thiệt hại tài sản do hành vi phạm tội của mình gây ra, người bị hại đã có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị can và không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 08 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh đã truy tố các bị cáo K’ B, K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 về tội “ Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án số 08/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh đã tuyên bố bị cáo K’ B, K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 phạm tội “ Hủy hoại tài sản ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo K’ B (tên gọi khác: K’ V) 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo K’ B1 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 36; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo K’ B2, K’Bìn, K’D và K’L1. Xử phạt mỗi bị cáo 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập hàng tháng khi chấp hành án. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 100 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo K’ Nh và K’L. Xử phạt mỗi bị cáo 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ, không khấu trừ thu nhập hàng tháng khi chấp hành án. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án.

Bản án còn giải quyết về vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/02/2019 bị cáo K’ B kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo K’ B giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do bức xúc nhóm của K’ T, K’ s, K’ S1 và K’ T1 đến gây sự đòi đánh Trang Kòn Q thì đã được mọi người can ngăn nên nhóm của K’ T ra về trước. Sau khi ra về, K’ T rủ K’ S1 và K’ T1, K’ Lý, K’ M và K’ B3 cùng chuẩn bị hung khí để chặn đánh Quang. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày khi Q cùng bị cáo K’ B điều khiển xe chạy đi về thì nhóm của K’ T chặn đánh nhưng Q điều khiển xe chạy thoát. Lúc này các bị cáo K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 đều là bạn của Q đi từ trong quán ra thấy nhóm K’ T đuổi đánh Q nên bị cáo K’ B1, K B2; K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 nhặt cây ngoài ven đường mỗi người một cây gậy ven đường rồi lao vào đánh nhau với nhóm của K’ T. Đánh nhau được một lúc thì nhóm của K’ T bỏ chạy vào vườn cà phê, thấy vậy thì K’ T1 và K’ Đ cũng bỏ xe lại và chạy theo. Sau khi không đuổi kịp nhóm của K’ T thì K’ B1 quay lại hô “Đập xe tụi nó đi” thì cả nhóm đồng ý, lúc này bị cáo K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 dùng gậy đập xe mô tô biển số 49S 1-056.03 làm cho bể dàn nhựa và móp méo nhiều chỗ. Lúc này bị cáo K’ B nghe có đánh nhau nên giấu xe quay lại thì thấy nhóm của K’ B1 đang đập phá xe thì hô “ Đốt xe” bị cáo K’ B lôi xe ra giữa đường và rút ống dẫn xăng cho xăng chảy ra rồi kêu bị cáo K’ L đưa quẹt gas để châm lửa đốt. Sau khi châm lửa cháy thì bị cáo K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 vứt gậy gỗ vào mục đích cho đám cháy to hơn. Hậu quả làm xe mô tô biển số 49S1-056.03 bị cháy hoàn toàn chỉ còn khung sắt. Lúc bị cáo K’ B đang đi về nghe có người nói còn xe mô tô biển số 49G1-195.56 đang giấu trong vườn thì bị cáo K’ B tiếp tục quay lại và đi đến vị trí xe rồi rút ống dẫn xăng cho chảy xăng ra rồi châm lửa đốt tiếp. Khi lửa vừa cháy thì có ông K’ B4, sinh năm 1966, trú tại thôn KN, xã BT đi đến hô dập lửa đi thì K’ B cởi áo khoác ra cùng K’ D dập lửa kịp thời nên xe mô tô biển số 49G1-195.56 chỉ bị cháy dây dẫn xăng.

Tổng giá trị thiệt hại tài sản là 5.500.000 đồng.

Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo, lời khai của người hại, người liên quan và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo K’ B, K’ B1, K’ B2, K’ L, K’ B3, K’ D, K’ Nh và K’ L1 phạm tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo K’ B xin hưởng án treo: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, thể hiện sự coi thường pháp luật.

Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, đánh giá đúng tính chất, mức độ, vai trò của bị cáo, xử phạt bị cáo K’ B mức án như trên là thỏa đáng. Trong vụ án này bị cáo K’ B là người chủ mưu đồng thời tham gia tích cực nhất, là người trực tiếp châm lửa đốt xe nên không có căn cứ cho bị cáo hưởng án treo.

[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K’ B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo K’ B phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo K’ B 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo K’ B phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HS-PT ngày 23/04/2019 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:30/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về