TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thấm số: 11/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh ngày 20/10/1968.
Nơi ĐKHKTT: Tổ 13A, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Nghề nghiệp: Lao động tự do(Có mặt)
- Bị đơn: Chị Bùi Thị N sinh ngày 08/11/1971.
Nơi ĐKHKTT: xóm H, xã Q, huyện Y, tỉnh Nghệ An.
Nghề nghiệp: Lao động tự do(Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn T, trình bày của nguyên đơn, bị đơn trong quá trình hòa giải và tại phiên tòa thì vụ án có nội dung:
Ông Nguyễn Văn T và bà Bùi Thị N cưới nhau vào tháng 05/1990. Trước khi cưới ông bà có quá trình yêu đương, tìm hiểu nhau, hôn nhân trên cơ sở tìnhyêu và sự tự nguyện đến với nhau. Sau đó tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, được sự đồng ý của hai gia đình chứng kiến của xóm làng và bạn bè. Nhưng ông T và bà N không làm thủ tục đăng ký kết hôn, mà sống với nhau như vợ chồng kể từ tháng 5/1990. Ông T, bà N sống hạnh phúc đến tháng 9/2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do tính tình hai bên không phù hợp nhau, không tìm được tiếng nói, lối đi chung trong hôn nhân, đã có những hành động, lời nói không đúng mực, xử sự thiếu tôn trọng nhau gây khó chịu cho nhau. Mâu thuẫn xẩy ra thường xuyên liên tục làm mất tình cảm giữa hai người dẫn đến hôn nhân đổ vỡ. Mâu thuẫn hai bên tự hòa giải với nhau, được gia đình hai bên vun vén nhưng không đưa lại kết quả gì, tình cảm hai bên không được cải thiện, ngược lại mâu thuẫn xẩy ra ngày càng trầm trọng hơn. Do mâu thuẫn đã làm cho không khí trong cuộc sống chung của hai người lúc nào cũng nặng nề gây khó chịu, nên ông T, bà N đã sống ly thân, cắt đứt các quan hệ từ cuối năm 2005 cho đến nay. Quá trình sống ly thân ông T, bà N không liên lạc, níu kéo hôn nhân. Ông bà xác định hôn nhân của họ đã đổ vỡ, không thể hàn gắn. Do không làm thủ tục đăng ký kết hôn, ông T, bà N đề nghị Tòa xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Văn T và bà Bùi Thị N.
2. Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Văn T, bà Bùi Thị N có với nhau con 02 con chung, anh Nguyễn Văn S; Giới tính; nam - Sinh ngày 20/10/1992 và anh Nguyễn Văn T; Giới tính; nam - Sinh ngày 28/8/1994. Con chung hiện nay đã trưởng thành, không bị nhược điểm về thể chất và tinh thần, nên ông T, bà N không yêu cầu tòa giải quyết.
3. Về quan hệ tài sản: Ông Nguyễn Văn T và bà Bùi Thị N không yêu cầu tòa giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
-Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện qui định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn T và bà Bùi Thị N tổ chức cưới nhau vào tháng 05/1990. Theo qui định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì điều kiện để ông T, bà N đầy đủ, ông bà có quyền và nghĩa vụ đến cơ quan chức năng làm thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy hôn nhân của ông T, bà N được gia đình hai bên thừa nhận, xóm làng, bạn bè chứng kiến, ông T, bà N có thời gian sống chung với nhau như vợ chồng với thời gian khá lâu, ông bà đã sinh được hai con chung hiện nay con chung đã đủ tuổi trưởng thành. Nhưng ông T, bà N không làm thủ tục đăng ký kết hôn nên pháp luật không công nhận hôn nhân giữa ông T và bà N là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi ông Nguyễn Văn T có đơn yêu cầu tòa án chấm dứt hôn nhân đối với bà bà Bùi Thị N. Tòa án không tổ chức hòa giải về quan hệ hôn nhân của ông bà theo qui định, nhưng đã vận động ông T rút đơn sau đó làm thủ tục đăng ký kết hôn để ông bà tiếp sống với nhau, duy trì hôn nhân. Nhưng cả hai đều xác định mâu thuẫn đã hết sức trầm trọng, mất hết tình cảm, không thể tiếp tục sống với nhau, hai bên mong muốn được giải phóng. Từ đó cho thấy hôn nhân giữa ông T và bà N đã hoàn toàn đổ vỡ, không thể hàn gắn. Do hôn nhân giữa ông T, bà N không hợp pháp, nên cần xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Văn T và bà Bùi Thị N .
[2] Về quan hệ con chung: Con chung đã đủ tuổi trưởng thành, không có nhược điểm về thể chất và tinh thần, ông T, bà N không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[3] Về quan hệ tài sản: Ông Nguyễn Văn T, bà Bùi Thị N không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.
[4] Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 9; Điều 14 và Điều 53 Luật hôn nhân và Gia đình.
Xử:
1.Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Văn T và bà Bùi Thị N.
2.Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 của nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
- Buộc: Ông Nguyễn Văn T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được tính trừ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí ly hôn ông đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003628 ngày02/4/2019 tại Chi cục Thị hành án Yên Thành. Ông Nguyễn Văn T đã nộp đủ án phí.
4. Quyền kháng cáo. Nguyên đơn, Bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng
Số hiệu: | 30/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về