TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 30/2018/HS-PT NGÀY 16/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 61/2018/TLPT-HS ngày 04/6/2018 đối với bị cáo Thạch Th. Do có kháng cáo của bị cáo Thạch Th đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tr c, tỉnh Trà Vinh.
- Bị cáo có kháng cáo: Thạch Th (tên gọi khác: Út R), sinh năm 1988. Nơi cư trú: Ấp Kós La, xã Thanh Sơn, huyện Tr c, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch C, sinh năm 1935 (chết) và bà Kim Thị B, sinh năm 1940 (chết); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: tốt; bị bắt tạm giữ ngày 02/8/2017, chuyển sang tạm giam ngày 05/8/2017 cho đến nay (bị cáo mặt tại phiên tòa)
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Minh Nh là Trợ giúp viên pháp lý của
Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Trà Vinh (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 11 giờ ngày 02/8/2017 Nguyễn Văn Th điều khiển xe mô tô chở Thạch Nh từ Vĩnh Long đến nhà Thạch Th để mua ma túy sử dụng. Khi đến nơi, Nguyễn Văn Th gặp trực tiếp Thạch Th và hỏi mua của Thạch Th 02 (hai) gói ma túy, với giá tiền là 300.000 đồng/gói, Thạch Th đồng ý bán. Sau khi nhận được 02 (hai) gói ma túy, Nguyễn Văn Th trả cho Thạch Th số tiền 600.000 đồng, Thạch Th lấy số tiền 600.000 đồng vừa bán ma túy có được bỏ vào trong ví tiền, Nguyễn Văn Th tiếp tục hỏi mua của Thạch Th thêm 01 (một) gói ma túy với giá 300.000 đồng/gói, Thạch Th đồng ý bán nên đã đi đến chổ treo quần áo trong nhà, để lấy gói ma túy mà Thạch Th cất giấu trong nếp gấp của ống quần sọt của Thạch Th trước đó, nhưng Thạch Th đã làm rơi gói ma túy xuống đất và sau đó đã bị Cơ quan Công an huyện Tr c phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại nền nhà của Thạch Th 01 (một) gói bọc nhựa được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể rắn trong suốt, sau đó đã được niêm phong và có ký hiệu là B. Đồng thời, tạm giữ trên người của Nguyễn Văn Th 02 (hai) gói bọc nhựa được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể rắn trong suốt, sau đó đã được niêm phong và có ký hiệu là A.
Theo Bản kết luận giám định số: 280/KLGĐ-PC54 ngày 03/8/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 02 (hai) gói nylon trong bao thư được niêm phong (ký hiệu A) gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,1884 gam, loại Methamphetamine. Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 01 (một) gói nylon trong bao thư được niêm phong (ký hiệu B) gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,0599 gam, loại Methamphetamine. Như vậy, tổng trọng lượng 03 (ba) gói ma túy là 0,2483 gam, loại Methamphetamine.
Ngoài ra, qua quá trình điều tra bị cáo khai nhận từ đầu năm 2017 đến ngày 01/8/2017, bị cáo còn trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng dưới đây cụ thể như sau:
Bán cho Nguyễn Văn Th trong tháng 07/2017 (không nhớ ngày) 02 gói ma túy giá 300.000 đồng/gói.
Bán cho Thạch Ngọc L trong tháng 07 năm 2017 (không nhớ ngày) một gói ma túy giá 300.000 đồng.
Bán cho Kim N vào ngày 01/8/2017 trên đường đi tại chùa Kós La thuộc ấp Kós La, xã Thanh Sơn, huyện Tr c, tỉnh Trà Vinh một gói ma túy với giá 150.000 đồng nhưng Non không có tiền trả nên đã cầm một giấy đăng ký xe mô tô biển số 84H2-5596 do ông Trần Văn H đứng tên quyền sở hữu xe.
Bán cho Ngô Trung T một gói ma túy, giá 300.000 đồng.
Bán cho Kim Thị T (tên gọi khác: Trinh) một gói ma túy giá 300.000 đồng. Ngoài các lần nêu trên, Thạch Th còn khai nhận bán trái phép chất ma túy cho Lâm Hạt là 02 lần với số lượng 02 gói ma túy, giá 300.000 đồng/gói và bán 05 lần cho một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) với số lượng là 05 gói ma túy, giá 300.000 đồng/gói.
Quá trình điều tra, đã chứng minh được: Tổng cộng Thạch Th đã bán trái phép chất ma túy được 07 (bảy) lần với 09 (chín) gói ma túy (trong đó có 01 lần với số lượng 01 gói ma túy đã thỏa thuận xong nhưng chưa giao nhận ma túy thì bị bắt).
Ngoài thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Thạch Th còn thực hiện hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy 03 lần tại nhà bị cáo, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Vào khoảng 19 giờ tối ngày 01/8/2017, bị cáo Th sử dụng 01 gói ma túy bằng các dụng cụ sử dụng gồm: 01 ống thủy tinh, 01 chai nhựa và 01 ống hút bằng nhựa. Lúc này, tại nhà bị cáo có người tên Kim Văn L, Lâm Văn Th, và Thạch Sa L (đã đến nhà bị cáo chơi trước đó) nhìn thấy bị cáo sử dụng ma túy nên L cùng đến tham gia sử dụng với bị cáo Th.
Lần thứ hai: Vào khoảng 23 giờ ngày 01/8/2017, bị cáo tiếp tục lấy 02 gói ma túy và dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy, thấy bị cáo Th sử dụng nên L, Th tiếp tục tham gia sử dụng chung với bị cáo Th. Trước khi bị cáo sử dụng ma túy, có Kim Tấn Kh đã đến nhà bị cáo chơi, thấy bị cáo cùng L và Th sử dụng ma túy nên Kh vào tham gia sử dụng chung. Tất cả sử dụng đến hết chất ma túy trong dụng cụ thì nghỉ, sau đó L, Th và Kh ở lại nhà bị cáo Th.
Lần thứ ba: Vào khoảng 05 giờ sáng ngày 02/8/2017, bị cáo Th tiếp tục lấy 01 gói ma túy và dụng cụ sử dụng đem ra để trên giường trong nhà. Bị cáo tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, thấy bị cáo sử dụng nên L, Th và Kh tiếp tục cùng tham gia sử dụng chung với bị cáo. Tất cả sử dụng đến hết chất ma túy trong dụng cụ sử dụng ma túy thì nghỉ.
Ngoài ra, bị cáo còn thực hiện hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần khác như: Trong tháng 7 năm 2017 bị cáo Th đã chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà bị cáo đối với Sa Ly 02 lần, Thương 04 lần vàLực 06 lần.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tr c, tỉnh Trà Vinh đã quyết định.
1. Tuyên bố bị cáo Thạch Th (tên gọi khác: Út R) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm b khoản 2 Điều 198 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Thạch Th 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 07 (bảy) năm tù về tội“Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt là 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tính tù kể từ ngày tạm giữ (ngày 02/08/2017).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên bị cáo nộp khoản tiền thu lợi bất chính vào ngân sách nhà nước và tịch thu tiền thu lợi bất chính đã thu giữ vào ngân sách Nhà nước, xử lý vật chứng, quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 09/5/2018 bị cáo Thạch Th kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Thạch Th thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm, bị cáo không khiếu nại gì về nội dung bản án, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Quan điểm của Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh: Nội dung án sơ thẩm tuyên bị cáo Thạch Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194, điểm b khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là đúng hành vi phạm tội của bị cáo Th. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không khiếu nại gì về nội dung bản án mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy chất ma túy là chất hướng thần, gây nghiện, nếu đưa vào cơ thể người sẽ gây ảnh hưởng nặng đến sức khỏe và tinh thần của người sử dụng thuộc quản lý độc quyền của Nhà nước. Bị cáo Th biết rõ vấn đề này, nhưng bị cáo vẫn cố ý mua bán một cách trái pháp luật, chứa chấp nhiều lần đối với nhiều người sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà bị cáo. Hành vi của bị cáo vừa xâm phạm đến quản lý độc quyền của Nhà nước, vừa tiếp tay gây nên các tệ nạn ma túy cho xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là đã xem xét đầy đủ, toàn diện về tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, phù hợp với tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo. Việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo được tính giáo dục, răng đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm, giữ nguyên án sơ thẩm.
Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo: Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy’ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 và điểm b khoản 2 Điều 198 bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội chúng tôi hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên với tổng hợp hình phạt hai tội đối với bị cáo là 15 năm tù là quá nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo, vì bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, trình độ pháp luật của bị cáo bị hạn chế, bị cáo không tiền án, tiền sự, bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội vi mô nhỏ, không chuyên nghiệp, còn việc chứa chấp người khác sử dụng ma túy trong nhà của mình, bị cáo không nhận thức được việc đó là phạm tội có mức án nặng như vậy. do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo sửa án sơ thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo còn trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét.
[2] Đối với yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Thạch Th. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, sau khi Hội đồng xét xử kiểm tra chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo thì bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo có mua bán, chứa chấp người khác sử dụng trái phép chất ma túy đúng như lời khai của bị cáo tại cấp sơ thẩm. Bị cáo không kháng cáo hay khiếu nại phần nào khác ngoài kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Chất ma tuý gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh của con người khi sử dụng, nó làm cho con người mất đi lý trí, hành xử một cách vô ý thức và gây ra nhiều tệ nạn xã hội mà không thể lường trước được. Do đó Đảng, Nhà nước và toàn dân đang ra sức phòng và chống các tệ nạn về ma túy. Hiện nay xã hội phát triển, các kênh ti vi, báo đài đã tuyên truyền sâu vào trong quần chúng nhân dân về tác hại của ma túy. Bị cáo là người đã Th niên, biết rất rõ về tác hại của chất ma túy, mọi hoạt động liên quan đến ma túy điều bị pháp luật nghiêm cấm. Nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy và chứa chấp nhiều người sử dụng chất ma túy trong nhà mình nhiều lần một cách trái pháp luật. Bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi bán ma túy cho nhiều đối tượng nghiện ma túy để sử dụng, hưởng giá trị chênh lệch bất chính. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194, Điểm b khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ pháp luật, phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét một cách toàn diện, đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, phù hợp với tính chất của vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo. Mức án 08 năm tù đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 07 năm tù đối với tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” đối với bị cáo là đã cân xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là mức hình phạt thấp nhất của khung. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không đưa ra tình tiết nào mới để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên không có cơ sở để cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm mới đảm bảo sự răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Đề nghị của vị kiểm sát viên phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Lời bào chữa của vị Trợ giúp viên pháp lý, Hội đồng xét xử cũng đã có xem xét, cân nhắc nhưng không thỏa mãn được, vì án sơ thẩm đã vận dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, đã giá đầy đủ đúng mức độ, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị của người bào chữa cho không phù hợp với các quy định của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến ma túy hiện nay trên địa bản tỉnh Trà Vinh nói riêng và cả nước nói chung, nên không có cơ sở chấp nhận.
[4] Về án phí: Bị cáo Thạch Th là người dân tộc thiểu số sống tại vùng đặc biệt khó khăn, nên miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm, không có kháng cáo, không bị kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Thạch Th.
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2018/HS-ST ngày 26/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tr c, tỉnh Trà Vinh.
Tuyên bố bị cáo Thạch Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Thạch Th 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 198 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Thạch Th 07 (bảy) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 tổng hợp hình phạt bị cáo Thạch Th phải chấp hành là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn phạt tù tính kể từ ngày 02/08/2017.
Án phí: Bị cáo Thạch Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 30/2018/HS-PT ngày 16/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 30/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về