TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 30/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 111/2018/TLST–HNGĐ ngày 16/4/2018 về tranh chấp “Hôn nhân và Gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị NTN, sinh năm 1983. Có mặt. HKTT: Thôn Đ, xã Đ, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội.
- Bị đơn: Anh NXK, sinh năm 1985.
HKTT và nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/3/2018, các bản tự khai, biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – chị NTN trình bày:
Về hôn nhân: Chị NTN kết hôn với anh NXK năm 2013 trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 01/4/2013 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại nhà bố mẹ anh K 01 năm, sau đó chuyển ra ở riêng tại Thôn Đ, xã Đ, huyện Chương Mỹ. Trong quá trình chung sống với nhau, anh K thường xuyên uống rượu say xỉn,nhiều lần đánh đập chị N. Từ tháng 10 năm 2016, chị N bỏ về nhà mẹ đẻ tại Thôn P, xã T, huyện Chương Mỹ để ở. Chị và anh K ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị N xác định tình cảm không còn, chị xin được ly hôn với anh NXK.
Về con chung: Chị NTN và anh NXK có 01 con chung là NTTV sinh ngày12/12/2013. Ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi cháu NTTV, chị N không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay cháu V đang ở với N, đang học trường mầm non gần nhà. Chị N hiện đang làm ở Công ty Điện tử WOORI ở Khu Công nghiệp Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ thu nhập 6.000.000 đồng/tháng đủ điều kiện chăm sóc con.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị N không yêu cầu giải quyết.
* Bị đơn – anh NXK trình bày:
Về hôn nhân: Anh NXK xác nhận thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn và nơi sinh sống sau khi kết hôn như chị NTN trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng, theo anh K thì cuộc sống vợ chồng giữa anh và chị N chỉ thỉnh thoảng có to tiếng với nhau nhưng anh cho rằng điều đó là bình thường, vợ chồng nào cũng có. Từ tháng 10 năm 2016, chị N tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ tại Thôn P, xã T, huyện Chương Mỹ chứ anh K không đuổi đánh, cũng không cãi nhau, anh K và chị N sống ly thân từ đó cho đến nay. Anh K cũng đã nhiều lần lên nhà thuyết phục chị N quay lại đoàn tụ nhưng chị N không đồng ý quay lại. Nay chị N xin ly hôn thì quan điểm của anh là anh không đồng ý vì vẫn còn yêu vợ và mong muốn vợ chồng đoàn tụ cùng nuôi dạy con chung.
Về con chung: Anh NXK xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu NTTV sinh ngày 12/12/2013. Anh K không muốn ly hôn nên không đặt ra vấn đề nuôi con nhưng nếu phải ly hôn thì quan điểm của anh K là để chị N nuôi con sẽ tốt hơn vì cháu NTTV là cháu gái cần có sự chăm sóc của mẹ.
Về tài sản chung, công nợ chung: Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn chị NTN vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh K và yêu cầu được nuôi con chung, bị đơn anh NXK giữ nguyên quan điểm không đồng ý lý hôn, nếu ly hôn anh K dành quyền nuôi con cho chị N. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn – chị N và Bị đơn – anh K đã chấp hành đúng qui định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị NTN và cho chị NTN được ly hôn anh NXK; Về con chung: Giao con chung là cháu NTTV cho chị NTN nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định khác. Anh NXK có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh NXK cho đến khi các bên có yêu cầu. Về tài sản chung, công nợ chung, công sức: Do các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh NXK hiện tại thường xuyên cư trú tại Thôn Đ, xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Chị NTN và anh NXK kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội nên hôn nhân giữa chị NTN và anh NXK là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình vợ chồng chung sống, giữa chị N và anh K có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, mỗi lần mâu thuẫn giữa anh K và chị N đều to tiếng với nhau và có xô xát. Tháng 10/2016, vợ chồng tiếp tục có mâu thuẫn nên chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó cho đến nay. Giữa chị N và anh K đều không đưa ra được phương án giải quyết mâu thuẫn, chị N cương quyết xin ly hôn anh K. Xét mâu thuẫn giữa chị NTN và anh NXK đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N để cả hai ổn định cuộc sống.
[2.2] Về con chung: Chị NTN và anh NXK có 01 con chung là cháu NTTV sinh ngày 12/12/2013. Ly hôn chị N có nguyện vọng nuôi cháu V, anh K có quan điểm nếu phải ly hôn anh đồng ý để chị N nuôi cháu V. Chị N hiện đang có công việc và thu nhập ổn định, cháu V hiện đang sinh sống ổn định cùng chị N. Để tránh xáo trộn về cuộc sống cũng như bảo đảm các quyền lợi được nuôi dưỡng, chăm sóc đối với cháu V nên giao cháu V cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ.
[2.3] Về cấp dƣỡng nuôi con chung: Chị NTN không yêu cầu anh NXK cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh NXK cho đến khi các bên có yêu cầu.
[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị NTN và anh NXK đều không yêucầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về án phí: Chị NTN phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về hôn nhân: Chị NTN được ly hôn anh NXK.
2. Về con chung: Chị NTN và anh NXK có 01 con chung là NTTV sinh ngày 12/12/2013.
Giao cháu NTTV cho chị NTN nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu NTTV đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định khác.
Anh NXK có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh NXK cho đến khi các bên có yêu cầu.
3. Về tài sản, công nợ chung, công sức: Không xem xét.
4. Về án phí: Chị NTN phải chịu 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Chị NTN đã nộp 300.000 đồng (theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2015/0003337 ngày 16 tháng 4 năm 2018) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, chị NTN, anh NXK có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 30/2018/HNGĐ-ST ngày 15/06/2018 về ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 30/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về