Bản án 30/2017/HNGĐ-ST ngày 25/12/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 30/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 25 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 134/2017/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2017/QĐST-HNGĐ ngày 17/11/2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Thị Bé H, sinh năm 1994. (Vắng mặt nhưng chị H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 18/10/2017).

Địa chỉ: Ấp S, xã V, huyện Vị T, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1987. (vắng mặt).

Địa chỉ: Số X, khóm Vĩnh M, phường B, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 27/9/2017 nguyên đơn chị Thị Bé H trình bày:

Vào ngày 17 tháng 12 năm 2012 chị và anh Nguyễn Văn Nh đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh B, huyện N (nay là Phường B, thị xã N), tỉnh Sóc Trăng. Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Mỹ Nh, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2013, hiện nay cháu Nh đang sống chung với chị. Sau khi đám cưới thì vợ chồng chị sống hạnh phúc đến ngày 13/4/2014 thì ly thân với nhau. Lý do ly thân: Vợ chồng bất đồng quan điểm, có nhiều mâu thuẫn dẫn đến thường xuyên cải vả nhau. Quá trình chung sống vợ chồng chị không có tài sản chung và cũng không có nợ chung, không ai nợ vợ chồng chị. Nay chị yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm xem xét, giải quyết:

- Về hôn nhân: Chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nh.

- Về con chung: Chị yêu cầu nuôi con chung là cháu Nguyễn Thị Mỹ Nh, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2013 và không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Chị không yêu cầu xem xét, giải quyết.

Đối với bị đơn Anh Nguyễn Văn Nh: Khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tóm tắt nội dung đơn khởi kiện và các yêu cầu của nguyên đơn chị H tại Thông báo thụ lý vụ án số 242/TB-TLVA, ngày 06/10/2017 và đã tống đạt hợp lệ cho anh Nh nhưng anh Nh không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Sau đó, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn Nh tham dự phiên hòa giải hai lần nhưng anh Nh không đến tham dự hòa giải. Vì vậy, Tòa án lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm phát biểu: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đầy đủ các thủ tục, trình tự khi xét xử vụ án. Các đương sự chấp hành tốt nội quy phiên tòa và quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thị Bé H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Nh, về con chung giao cháu Nguyễn Thị Mỹ Nh cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, về tài sản chung, nợ chung các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên Tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Thị Bé H và bị đơn anh Nguyễn Văn Nh vắng mặt. Chị H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 18/10/2017; Bị đơn anh Nguyễn Văn Nh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh Nh.

[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Chị Thị Bé H và anh Nguyễn Văn Nh đã được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh B, huyện N(nay là Phường B, thị xã N), tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 135, ngày 17/12/2012 nên hôn nhân của chị H và anh Nh là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảovệ. Chị H cho rằng trong thời gian chung sống thì vợ chồng luôn bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên mâu thuẫn, cải vả và đã ly thân từ ngày 13/4/2014 đến nay nên chị H yêu cầu được ly hôn với anh Nh. Căn cứ vào biên bản xác minh đối với bà Đinh Thị Đ đề ngày 22/11/2017 là mẹ ruột anh Nh cho rằng hiện nay anh Nh đang sống chung nhà với bà, anh Nh làm nghề lái xe, một vài ngày mới về nhà một lần việc chị H yêu cầu ly hôn với anh Nh thì anh Nh cũng biết vì bà là người nhận giấy tờ của Tòa án thay cho anh Nh, bà đã giao lại cho anh Nh nhưng anh Nh không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị H. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của chị Thị Bé H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Nh, để tạo điều kiện cho mỗi người tạo dựng cuộc sống mới.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị H và anh Nh có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Mỹ Nh, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2013, hiện nay cháu Nh đang sống chung với chị H nên chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nh, không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, yêu cầu được nuôi con của chị H là yêu cầu hoàn toàn chính đáng, được luật Hôn nhân và Gia đình ghi nhận và bảo vệ. Đối với cháu Nh từ khi sinh ra cho đến nay cháu Nh luôn sống chung với chị H, còn anh Nh làm công việc lái xe, thường xuyên đi vắng nhà không có nhiều thời gian để chăm sóc, nuôi dạy con nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82; khoản 2 Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Nguyễn Thị Mỹ Nh cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành để không làm thay đổi nơi sinh sống của cháu Nh nhằm ổn định tâm lý để cháu được phát triển bình thường. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh Nguyễn Văn Nh không ai được quyền ngăn cản. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Do chị Thị Bé H và anh Nguyễn Văn Nh không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Chị H và anh Nh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Ý kiến của đại viện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

[6] Về án phí sơ thẩm: Chị Thị Bé H phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82 và khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Thị Bé H.

- Về hôn nhân: Chị Thị Bé H được ly hôn với anh Nguyễn Văn Nh.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Mỹ Nh, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2013 cho chị Thị Bé H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Về nghĩa vụ cấp dưỡng do chị Thị Bé H và anh Nguyễn Văn Nh không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Anh Nh được quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Chị Thị Bé H và anh Nguyễn Văn Nh không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

2/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Thị Bé H phải chịu số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008014 ngày 06/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. Chị H đã nộp xong tiền án phí. Anh Nguyễn Văn Nh không phải chịu án phí.

3/ Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

- Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2017/HNGĐ-ST ngày 25/12/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:30/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về