TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 301/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thâm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 397/2019/TLST-HS ngay 17/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 371/2019/QĐXXST-HS ngày 07/11/2019 đôi vơi bị cáo:
Đặng Văn Q sinh năm 1986 tại Đắk Nông; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã H, huyện S, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở trước khi bị tạm giam: Số 09 Nguyễn Khắc V, phường Vĩnh H, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; nghê nghiêp: Lao động tự do; trình độ văn hóa : 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Từ H sinh năm 1962 và bà Ngô Thị M sinh năm 1965; vợ Bùi Trương Thanh N sinh năm 1984; 01 con;
Tiền án: Bản án số 24/2014/HS-ST ngày 23/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Ái, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 30 tháng tù tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 28/3/2017;
Tiền sự: Không; Nhân thân:
- Bản án số 29/2008/HS-PT ngày 07/3/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù tội “Trộm cắp tài sản”.
- Bản án số 269/2009 ngày 21/4/2009 của Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 01 năm 09 tháng tù tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 09 tháng tù tội “Trốn khỏi nơi giam”, tổng hợp hình phạt của 02 tội là 02 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt với bản án số 29/2008/HS-PT ngày 07/3/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Q phải chấp hành 04 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/9/2011.
- Bản án số 383/2013/HS-ST ngày 03/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 01 năm 03 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/11/2014.
Bị cáo Q bị tạm giam từ ngày 22/7/2019, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Ngô Đức Ph, sinh năm 1965
Địa chỉ: 134/3 L, phường Phước H, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ông Ph vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lương Thị Ng, sinh năm 1962
Địa chỉ: Thôn Tr, xã Ninh H, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Bà Ng vắng mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Bà Phùng Thị H, sinh năm 1984
Địa chỉ: Thôn T, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Bà H vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Văn Q và Ngô Đức Ph có mối quan hệ quen biết. Khoảng 11 giờ ngày 07/6/2019, Q có nhờ T (không rõ nhân thân, lai lịch) chở qua Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa để gặp Ph. Tại đây, Q có nói với Ph là dạo này Q làm ăn được, có mở quán Karaoke nên mời Ph qua chơi. Ph đồng ý và lấy xe của mình hiệu Oriental, mang biển kiểm soát 79N7-7629 đưa cho Q chở mình qua quán karaoke Chuông Vàng tại Lô 113, ô 25, Mặt bằng quy hoạch phân lô Đông Mương, Đường Đệ, phường Vĩnh Hòa, thành phố Nha Trang. Đến nơi, Q nói với Ph là quán của mình nên cứ chơi thoải mái. Sau đó, Q gọi 04 tiếp viên nữ và 02 nam tên Ch, L (không rõ nhân thân, lai lịch) đến hát chung. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Q nói với Ph điện thoại mình hết tiền nên mượn điện thoại hiệu Buk B150 và xe moto của Ph để đi thu tiền góp. Ph đồng ý giao xe và điện thoại cho Q. Sau đó, Q lấy xe và điện thoại của Ph đi vay tiền để trả tiền hát karaoke chứ không phải đi thu tiền góp như Q đã nói. Do không mượn được tiền nên Q quay lại quán karaoke Chuông Vàng ngồi hát tiếp với Ph. Sau đó, Q lại mượn điện thoại và xe moto của Ph đi công việc, Ph đồng ý. Q tiếp tục đi vay tiền nhưng không được nên quay lại quán karaoke với Ph. Sau đó, Q tiếp tục hỏi mượn điện thoại và xe của Ph đi công việc, Ph lại đồng ý. Q tiếp tục đi vay tiền nhưng không được nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là điện thoại và xe moto của Ph. Q không quay lại chỗ Ph mà ra bờ biển nằm nghỉ. Sau khi hát karaoke xong, Ph biết Q không phải chủ quán nên đã nhiều lần gọi cho Q yêu cầu trả điện thoại và xe cho mình nhưng Q không mang trả mà chỉ hứa trả lại sau.
Đến khoảng 06 giờ 30 phút ngày 08/6/2019, Q gọi điện cho chị Phùng Thị H đến uống nước mía ven đường trên Quốc lộ 1A, xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang. Tại đây, Q có gợi ý bán xe moto biển kiểm soát 79N7-7629 cho chị H với giá 2.000.000đ nhưng chị H nói không có tiền nên Q hạ giá còn 1.600.000đ, chị H vẫn nói không có tiền và Q nói với chị H có bao nhiêu đưa bấy nhiêu vì Q đang cần tiền gấp. Chị H hỏi nguồn gốc chiếc xe trên thì Q nói mới “đá” được. Nghi ngờ xe gian, chị H gọi cho bạn tên V (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi thì V cho biết sẽ báo Công an xã Vĩnh Lương, còn chị H ở đó giữ chân Q. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày thì Công an xã Vĩnh Lương đến đưa Q và H về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan công an, Q đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 348/HĐĐG ngày 12/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang kết luận: Xe moto hiệu Oriental biển kiểm soát 79N7-7629 giá trị là 3.000.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Buk B150 giá trị là 193.030đ. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.193.030đ - Vật chứng của vụ án: 01 xe moto hiệu Oriental biển kiểm soát 79N7-7629; 01 điện thoại di động hiệu Buk B150 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Ngô Đức Ph; 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 ống kim loại dài 16cm màu bạc; 01 thanh kim loại dài 08cm màu nâu, 01 đầu dẹp, 01 đầu tròn, 01 ví tiền (không có tiền bên trong).
Tại bản cáo trạng số 309/CT-VKSNT ngày 14/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để xét xử đối với bị cáo Đặng Văn Q về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đặng Văn Q, xử phạt bị cáo Q từ 12 đến 18 tháng tù. Vật chứng: 01 xe moto hiệu Oriental biển kiểm soát 79N7- 7629; 01 điện thoại di động hiệu Buk B150 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Ngô Đức Ph nên không xem xét giải quyết; Trả lại cho Q 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 ví tiền (không có tiền bên trong); Tịch thu tiêu hủy 01 ống kim loại dài 16cm màu bạc; 01 thanh kim loại dài 08cm màu nâu, 01 đầu dẹp, 01 đầu tròn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người bị hại ông Ngô Đức Ph; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị Ng, người làm chứng bà Phùng Thị H mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, xét thấy việc vắng mặt của các đương sự có tên trên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Ph, bà Ng và bà H theo quy định tại Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Mặc dù giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 4.000.000đ nhưng bị cáo đã bị kết án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng số 309/CT-VKS ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo Đặng Văn Q về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Do vậy, cần thiết phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phát huy hiệu quả phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3]. Về trách nhiệm dân sự: Ông Ngô Đức Ph không yêu cầu về việc bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4]. Về vật chứng: 01 xe moto hiệu Oriental biển kiểm soát 79N7-7629; 01 điện thoại di động hiệu Buk B150 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Ngô Đức Ph nên không xem xét giải quyết; Trả lại cho Q 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 ví tiền (không có tiền bên trong); Tịch thu tiêu hủy 01 ống kim loại dài 16cm màu bạc; 01 thanh kim loại dài 08cm màu nâu, 01 đầu dẹp, 01 đầu tròn.
[5]. Về án phí: Bị cáo Đặng Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, tuyên bố bi cao Đặng Văn Q phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; xử phạt bị cáo Đặng Văn Q 09 (chín) tháng tù. Thơi han chấp hành hình phạt tù đươc tinh tư ngay tạm giam là ngày 22/7/2019.
- Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.
- Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét, giải quyết.
- Về vật chứng: 01 xe moto hiệu Oriental biển kiểm soát 79N7-7629; 01 điện thoại di động hiệu Buk B150 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Ngô Đức Ph nên không xem xét giải quyết;
Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
+ Trả lại cho Đặng Văn Q 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 ví tiền (không có tiền bên trong) (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang);
+ Tịch thu tiêu hủy 01 ống kim loại dài 16cm màu bạc; 01 thanh kim loại dài 08cm màu nâu, 01 đầu dẹp, 01 đầu tròn (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc bị cáo Đặng Văn Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án . Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 301/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 301/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về