Bản án 300/2020/HSST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 300/2020/HSST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 252/2020/HSST ngày 06 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 273/2020/HSST-QĐ ngày 15/10/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Tiến A, sinh năm 2000, Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: tổ dân phố số 2, phường Đ, quận B, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên bố: Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1965; Họ tên mẹ: Phạm Thị Xuân P, sinh năm: 1968; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và tạm giam từ ngày 19/7/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại giam số I- Công an thành phố Hà Nội. Danh chỉ bản số 434 ngày 27/7/2020 lập tại Công an quận Bắc Từ Liêm. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Đặng Minh Đ, sinh ngày: 16/5/2003; ( Đến ngày phạm tội bị cáo 17 tuổi, 02 tháng, 14 ngày) Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: thôn H, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Họ tên bố: Đặng Văn V, sinh năm: 1977; Họ tên mẹ: Hà Thị T, sinh năm: 1984; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và tạm giam từ ngày 19/7/2020 đến ngày 28/7/2020, bị cáo được hủy tạm giữ và đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Danh chỉ bản số 435 ngày 27/7/2020 lập tại Công an quận Bắc Từ Liêm. (Có mặt tại phiên tòa).

Đại diện theo pháp luật của bị cáo Đặng Minh Đ : Bà Hà Thị T , sinh năm : 1984 - Mẹ đẻ của bị cáo. (Có mặt tại phiên tòa)

Người bào chữa cho bị cáo Đặng Minh Đ: Bà Nguyễn Thị N- Trợ giúp viên pháp lý, thuộc chi nhánh số 4- trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Anh Vũ Tuấn A, sinh năm 2003; Nơi ĐKHKTT: số 17, ngách 347/57/5 đường Cổ Nhuế, phường C, quận B, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Duy Trung H, sinh năm 1994; Nơi ĐKHKTT: TDP H, phường L, quận B, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ bị Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố về hành vi phạm tội như sau: Ngày 16/7/2020, Công an phường C, quận B, Hà Nội tiếp nhận đơn trình báo của anh Vũ Tuấn A về việc bị mất trộm chiếc xe máy Honda Wave màu trắng, BKS: 29X1 - 471.20, số máy HC12E7129768, số khung RLHHC1250FY129746 tại quán Q địa chỉ số 465 đường C, phường C, quận B, thành phố Hà Nội.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 17 giờ ngày 15/7/2020, Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ đến chơi game tại quán Q. Khi vào quán ngồi chơi game, Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe Honda Wave màu trắng, không BKS của anh Vũ Tuấn A để trong quán game. Sau đó, Tiến A và Đ đã bàn bạc và cùng thống nhất trộm cắp chiếc xe Honda Wave màu trắng, không BKS mang ra khỏi quán Game. Khi dắt chiếc xe trên ra ngoài đường, do chiếc xe bị thủng lốp sau và không có chìa khóa để nổ máy nên Đ ngồi lên điều khiển xe Honda Wave còn Tiến A điều khiển chiếc xe Exciter BKS: 17B8 - 389.20 lấy chân trái đạp vào pô để đẩy xe trộm cắp đến quán sửa xe của anh Hoàng Công B (sinh năm: 1993) tại địa chỉ số 68 T, phường Đ, quận B, Hà Nội để thay lốp xe và thay ổ khóa hết 330.000 đồng. Tại quán sửa xe, Tiến A và Đ thấy trong cốp xe có BKS: 29X1 -471.20.

Do trước đó, Phạm Duy Trung H có nói với Tiến A là nếu có xe nào mua được rẻ thì bán lại giá rẻ cho H nên Tiến A bảo Đ ở lại chờ thay ổ khóa còn Tiến A đi đón Phạm Duy Trung H đến để mua bán xe. Tại quán sửa xe, sau khi thỏa thuận, H mua chiếc xe trên với giá 1.000.000 đồng, H trả 330.000 đồng tiền sửa xe cho anh B và đưa Tiến A 70.000 đồng rồi điều khiển xe đi. Tiến A, Đ điều khiển xe máy Exciter BKS: 17B8- 389.20 lên phố Khâm Thiên để uống nước. Sau đó, H trả thêm số tiền 600.000 đồng cho Tiến A, số tiền bán xe được, Tiến A và Đ tiêu sài cá nhân hết. Đến ngày 18/7/2020, Công an phường Đ mời Tiến A và Đ lên làm việc, tại cơ quan Công an Tiến A và Đ khai nhận hành vi của mình như trên.

- Vật chứng thu giữ: 01 (một) USB có chứa video vụ trộm cắp tài sản trích từ camera quán Q gaming. Thu giữ của Đặng Minh Đ: 01 (một) xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS: 17B8 - 389.20. Thu giữ của anh Phạm Duy Trung H: 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29X1- 471.20 màu trắng đen bạc.

Ngày 20/7/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận B ra Yêu cầu định giá tài sản số 105 đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B định giá đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng - đen - bạc BKS: 29X1 -471.20.

Tại Kết luận định giá số 165 ngày 24/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận B, kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29X1- 471.20 màu trắng đen bạc trị giá là 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng).

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29X1 - 471.20 màu trắng, cơ quan Cảnh sát điều tra xác minh xác định người đứng tên đăng ký xe trên là anh Nguyễn Xuân H (sinh năm 1996, địa chỉ: T, T, C, Hà Nội), tra cứu xe máy không có trong dữ liệu xe vật chứng. Tại cơ quan điều tra, chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1986, địa chỉ: T, T, C, Hà Nội, là mẹ đẻ của anh Vũ Tuấn A) khai chiếc xe máy trên là của anh Nguyễn Xuân H - em trai chị H, do anh H lao động tại nước ngoài nên anh H ủy quyền lại cho chị sử dụng. Khoảng đầu tháng 7/2020, anh Vũ Tuấn A tự ý lấy chiếc xe đi chơi và để mất trộm vào ngày 15/7/2020 tại quán Q.

Ngày 16/8/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận B đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả lại chiếc xe máy trên cho chị Nguyễn Thị H. Chị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS: 17B8 - 389.20, cơ quan Cảnh sát điều tra xác minh xác định người đứng tên đăng ký xe trên là anh Đặng Văn V (sinh năm 1977, địa chỉ: H, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình). Tại cơ quan điều tra, anh Đặng Văn V khai chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của anh, anh mua và đăng ký đứng tên vào tháng 01/2020. Khoảng đầu tháng 7/2020, Đặng Minh Đ tự ý lấy chiếc xe đi lên Hà Nội chơi. Việc Đ tự ý lấy xe và sử dụng đi trộm cắp, anh V không biết. Tra cứu xe máy không có trong dữ liệu vật chứng nên ngày 16/8/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận B đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả lại chiếc xe máy trên cho anh Đặng Văn V. Anh V đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Đối với Phạm Duy Trung H, khi mua chiếc xe máy Honda Wave của Tiến A, H không biết đây là xe do Tiến A và Đ trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 270/CT-VKSBTL ngày 01/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận B quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận tội như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B tham gia phiên tòa sau khi phân tích đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51, 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến A mức án từ 8-10 tháng tù; áp dụng Khoản 1 Điều 173 , điểm i,s khoản 1 Điều 51 điều 58 ,điều 65, điều 91 Bộ luật hình sự;Xử phạt bị cáo Đặng Minh Đ mức án từ 6-8 tháng tù nhưng cho hưởng án treo hạn thử thách 12-16 tháng.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng hình sự : Các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an quận B, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền , trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội: Khoảng 17 giờ ngày 15/7/2020, tại quán Q - Gaming địa chỉ số 465 đường Cổ Nhuế, phường C, quận B, thành phố Hà Nội, Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe máy Honda Wave BKS: 29X1 - 471.20 của anh Vũ Tuấn A, trị giá: 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng). Tài sản đã được thu hồi và trao trả cho chủ sở hữu.

- Xét tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận B truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật, đứng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

[3] Đánh giá vai trò và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án: Vụ án này có đồng phạm giản đơn, bị cáo Tiến A rủ rê Đ cùng thống nhất lên kế hoạch thực hiện hành vi trộm cắp . Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Minh Đ phạm tội khi 17 tuổi, 02 tháng , 14 ngày nên áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự khi lượng hình với bị cáo. về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng. Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo Tiến A giữ vai trò đầu vụ rủ rê bị cáo Đ thực hiện hành vi phạm tội. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung. Xét thấy đối với bị cáo Đ việc cải tạo ngoài xã hội cũng đủ răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 58, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tiến A 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 19/7/2020.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 58, Điều 65 ; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt : Bị cáo Đặng Minh Đ 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo hạn thử thách 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày Tòa tuyên án.

Giao bị cáo Đặng Minh Đ cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 của Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn áp dụng hình phạt bổ Sung đối với các bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 - Bộ luật Tố tụng hình sự.

Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/ 2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, nộp án phí lệ phí Tòa án

Bị cáo Nguyễn Tiến A và Đặng Minh Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Án xử sơ thẩm công khai các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 300/2020/HSST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:300/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về