Bản án 300/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp ly hôn giữa chị N với anh K

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 300/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ N VỚI ANH K

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 77/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 78/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Như N, sinh năm 1973 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Tổ 30, ấp BC, xã Bl, huyện C, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng K, sinh năm 1970 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Tổ 30, ấp BC, xã Bl, huyện C, tỉnh An Giang.

Tạm trú: Ấp Bình Hưng, xã Bl, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 9 năm 2018 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn chị Lê Như N trình bày:

- Về hôn nhân: Vợ chồng bắt đầu chung sống với nhau từ năm 1998, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh K hay ghen tuông, xúc phạm danh dự chị, đời sống chung không hòa hợp, vợ chồng đã ly thân hơn 02 năm. Hiện cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên chị N yêu cầu giải quyết cho ly hôn với anh K.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Lê Như H, sinh ngày 19/11/1999 và Nguyễn Lê Bảo T, sinh ngày 13/9/2006. Cháu H đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu cháu T có nguyện vọng chung sống với chị N thì chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Nguyễn Trọng K trình bày tại phiên hòa giải ngày 07 tháng 5 năm 2019 như sau:

- Về hôn nhân: Vợ chồng bắt đầu chung sống với nhau từ năm 1998, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do chị N có người khác bên ngoài. Vợ chồng đã ly thân hơn 02 năm. Nay chị N yêu cầu ly hôn anh đồng ý với điều kiện chị N phải trả cho anh 7.000.000 đồng, đây là tiền mà em vợ Lê Thị Nguyên, cô Sáu vay không lãi và 01 chỉ vàng 24kr anh cho thầu đề tên Nguyễn Thanh Hồng mượn, nhưng vợ anh bán số đề bị giựt nên ông Hồng đã trừ cấn ngang.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Lê Như H, sinh ngày 19/11/1999 và Nguyễn Lê Bảo T, sinh ngày 13/9/2006. Cháu H đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện cháu T đang sống chung với anh, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T và anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị N vẫn giữ yêu cầu ly hôn với anh K. Anh K vắng mặt không lý do.

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Photo chứng minh nhân dân, Sổ hộ khẩu; bản sao giấy khai sinh cháu H và cháu T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tranh chấp của các đương sự là về ly hôn, nuôi con chung, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Đối với bị đơn Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, xem như từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Trọng K có đặt vấn đề anh đồng ý ly hôn với điều kiện chị N phải trả cho anh 7.000.000 đồng và 01 chỉ vàng, anh K có trình bày ý kiến nhưng không làm đơn khởi kiện yêu cầu đòi tài sản. Tòa án đã mở phiên tòa xét xử, anh K nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên xem như anh K đã từ bỏ quyền của mình.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị N và anh K chung sống, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định, quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh K ghen tuông, xúc phạm danh dự chị N, vợ chồng ly thân đã lâu. Nay tình cảm không còn chị N xin được ly hôn với anh K, anh K cũng đồng ý ly hôn nhưng với điều kiện chị N phải trả cho anh 7.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kr.

Xét, quan hệ hôn nhân của chị N và anh K, Hội đồng xét xử nhận định: Chị N và anh K chung sống với nhau có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn là không phù hợp quy định pháp luật tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn và ly thân đã lâu. Đồng thời, tại phiên hòa giải anh K cũng trình bày ý kiến đồng ý ly hôn với điều kiện chị N phải trả cho anh 7.000.000 đồng và 01 chỉ vàng 24kr, thể hiện anh chị đã không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N yêu cầu ly hôn với anh K là có cơ sở, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N nhưng do anh chị không đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh và chị.

[2.2] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Lê Như H, sinh ngày 19/11/1999 và Nguyễn Lê Bảo T, sinh ngày 13/9/2006. Cháu H đã trưởng thành, có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Hiện cháu T đang sống chung với anh K, anh K yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T và anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Chị N cũng có yêu cầu được nuôi cháu T, cháu T có nguyện vọng được sống chung với chị N. Xét nguyện vọng của cháu T, yêu cầu của anh K, để ổn định tinh thần, sinh sống, học tập của cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu T cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị N không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh K có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền cản trở.

[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 9, Điều 14, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5 Điều 15 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Lê Như N đối với anh Nguyễn Trọng K.

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Lê Như N với anh Nguyễn Trọng K.

2. Về con chung:

- Nguyễn Lê Như H, sinh ngày 19/11/1999 đã trưởng thành và có khả năng lao động không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Giao cháu Nguyễn Lê Bảo T, sinh ngày 13/9/2006 cho chị Lê Như N trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn Trọng K có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con 3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Như N không yêu cầu anh Nguyễn Trọng K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

6. Về án phí: Chị Lê Như N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001120 ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

7. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày đương sự nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 300/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp ly hôn giữa chị N với anh K

Số hiệu:300/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về