Bản án 299/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 299/2019/HS-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 297/2019/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312/2019/HSST-QĐ ngày 13/9/2019 đối với bị cáo:

1.Quách Văn T, sinh năm 1990 tại tỉnh Hòa Bình; thường trú: Xóm Đ xã L, huyện T tỉnh Hòa Bình; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: lái xe; con ông Quách Văn V, sinh năm 1960 và con bà Đinh Thị N, sinh năm 1965; bị cáo có 04 anh em ruột, bị cáo là thứ tư; tiền sự, tiền án: Không có. Bị bắt giam ngày 02/6/2019 2. Đinh Quốc T1, sinh năm 1989 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 8 thôn L, xã L huyện S, tỉnh Hà Tĩnh; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông Đinh Nho L, sinh năm 1960 và con bà Bùi Thị H, sinh năm 1957; bị cáo có 01 con sinh năm 2010; tiền sự: Không có.

Tiền án: Ngày 21/9/2017, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 1 năm 3 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 205, ngày 28/4/2018 chấp hành xong phạt tù, bị bắt giam ngày 02/6/2019

Bị hại: Anh Trần Đắc H, sinh năm 1991; thường trú: Tổ 8, khu phố P, phường B, thị xã K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1.Công ty cổ phần tập đoàn Vận tải Sài Gòn; địa chỉ : 782 A Quốc lộ 51, xã An Hòa, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Anh Nguyễn Quang C, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn D, huyện D tỉnh Tuyên Quang là đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 12/6/2019), vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp N, thị trấn L, tỉnh Bạc Liêu, vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Quyết Đ, sinh năm 1982; Ấp T xã Q, huyện D, tỉnh Bạc Liêu, vắng mặt.

-Người làm chứng: Anh Cao Bình M, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Quách Văn T là tài xế taxi cho Công ty cổ phần tập đoàn vận tải Sài Gòn, bị cáo Đinh Quốc T1 là bạn T. Khoảng 16 giờ ngày 01/6/2019, T điều khiển xe taxi biển số 60A-326.31 chở anh Trần Đắc H và bạn ở địa chỉ tổ 8 khu phố P, phường B, thị xã K, tỉnh Bình Dương đi quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh chơi. T biết tối ngày 01/6/2019 anh H không có ở Kiốt, khoảng 22 giờ cùng ngày T điện thoại cho T1 rủ đi trộm cắp tài sản của H, khoảng 01 giờ 00 phút ngày 02/6/2019, T điều khiển xe taxi biển số 60A-326.31 đến khu vực siêu thị EON, thị xã Thuận An đón T1, khi đi T1 chuẩn bị và cầm theo 01 túi xách bên trong có 01 kìm cộng lực cắt sắt dài khoảng 60 cm, 01 tuốc nơ vít. Cả hai điều khiển xe ô tô đến kiốt anh H. T dừng xe trước cửa Kiốt cảnh giới, T1 tiếp cận Kiốt dùng kìm cắt ổ khóa, dùng tuốc nơ vít cạy cửa đi vào trong dắt 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 94S1-1638 (xe của anh Nguyễn Văn V, anh H mượn xe anh V sử dụng) ra dựng trước đầu xe taxi, sau đó tiếp tục đi vào lục tìm tài sản. Thời điểm này Lực lượng Công an phường Tân Bình, thị xã Dĩ An đi tuần tra phát hiện bắt quả tang bị cáo T1, bị cáo T điều khiển xe taxi tẩu thoát. Đến 09 giờ ngày 02/6/2019 T bị Công an phường Tân Bình mời lên làm việc, T thừa nhận việc chiếm đoạt tài sản của anh H.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu đỏ đen, biển số 94S1-1638; 01 xe taxi nhãn hiệu Kia, biển số 60A-326.31; 01 chiếc tuốc nơ vít dài 27cm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu xám đen, sim số 0908153345; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám, sim số 0937907206 Vật chứng đã xử lý trả chủ sở hữu:

+ Anh Nguyễn Văn V xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu đỏ đen, biển số 94S1-1638.

+ Công ty cổ phần tập đoàn vận tài Sài Gòn xe taxi nhãn hiệu Kia biển số 60A-326.31 Kết luận định giá tài sản số 128/BB.ĐG ngày 10/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Dĩ An xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu đỏ đen, biển số 94S1-1638 trị giá 8.000.000 đồng Cáo trạng số 314/CT-VKS ngày 27/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Quách Văn T, Đinh Quốc T1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h, khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T1 từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu xám đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc tuốc nơ vít dài 27cm; sim số điện thoại 090.815.3345 và sim số 093.790.7206 Bị cáo T, T1 không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo T xin giảm nhẹ mức án thấp nhất. Bị cáo T không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 02/6/2019, lời khai bị hại, kết luận định giá, biên bản ghi lời khai các bị cáo, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện. Vào ngày 01/6/2019 bị cáo Quách Văn T điện thoại rủ bị cáo Đinh Quốc T1 đến Kiốt anh Trần Đắc H địa chỉ tổ 8 khu phố P, phường B, thị xã K, tỉnh Bình Dương chiếm đoạt tài sản, khoảng 01 giờ ngày 02/6/2019 tại Kiốt anh H, bị cáo T, T1 đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu đỏ đen, biển số 94S1-1638 trị giá 8.000.000 đồng thì bị bắt giữ. Như vậy, hành vi trên của các bị cáo T, T1 đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 314/CT-VKS ngày 27/8/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có, bị cáo T1 chưa được xóa án tích tại bản án số 205 ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T, T1 phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tình tiết trên được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân tốt thể hiện không có tiền án tiền sự. Bị cáo T1 có nhân thân xấu thể hiện việc đã bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản, lần phạm tội này của bị cáo thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo T, T1 phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ, mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo T là người khởi xướng rủ bị cáo T1 phạm tội, bị cáo T, T1 tham gia với vai trò người thực hành. Bị cáo T1 có tiền án do vậy mức án bị cáo T1 phải cao hơn so với mức án bị cáo T.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Đắc H đã nhận được tài sản bị chiếm đoạt, anh H không có yêu cầu bồi thường gì khác. Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu xám đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, vật chứng còn giá trị sử dụng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với tuốc nơ vít dài 27cm; sim số điện thoại 090.815.3345 và sim số 093.790.7206 các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội vật chứng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng và mức hình phạt đối với các bị cáo. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T, T1 phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Quách Văn T, Đinh Quốc T1 phạm tội Trộm cắp tài sản.

1.1 Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Quách Văn T 01 (một) năm tù.

1.2 Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đinh Quốc T1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù đối với bị cáo T, T1 tính từ ngày 02/6/2019.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu xám đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc tuốc nơ vít dài 27cm; sim số điện thoại 090.815.3345 và sim số 093.790.7206 Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/8/2019.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Bị cáo Quách Văn T, Đinh Quốc T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vũ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 299/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:299/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về