Bản án 298/2020/HS-PT ngày 18/06/2020 về tội nhận hối lộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 298/2020/HS-PT NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự phúc thẩm thụ lý số: 171/2020/TLPT-HS ngày 10 tháng 04 năm 2020, đối với bị cáo Trần Anh T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2020/HS- ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Anh T: sinh năm: 1960 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 236/29 Trần Hưng Đạo, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công chức; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T (chết) và bà Trần Thị T; có vợ Trần Thị Thu T và 02 con, lớn nhất sinh năm: 1982, nhỏ nhất sinh năm: 1992; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo tại ngoại – Vắng mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Nguyễn Tuấn Tâm, là luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh - Có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo Phan Thị Diệu C, Lâm Hữu H không có kháng cáo. Bị cáo Nguyễn Thị B Hường có đơn kháng cáo, nhưng sau đó có đơn xin rút đơn kháng cáo. Xét thấy bị cáo Nguyễn Thị Bạch H có đơn rút đơn kháng cáo trước khi mở phiên tòa Phúc thẩm, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị Bạch H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Thị Diệu C là Đội trưởng Đội thuế Liên phường 3 thuộc Chi cục thuế Quận 5, quản lý địa bàn các Phường 6, 12, 13, 15. Đồng thời là thành viên Ban chỉ đạo trong việc thực hiện lập, duyệt Sổ bộ thuế và công khai thông tin cá nhân nộp thuế khoáng năm 2019, là thành viên thường trực Hội đồng tư vấn thuế Phường 6, 12, 13 nhiệm kỳ 2016-2020 và từ sau ngày 27/12/2017 có bổ sung thêm Phường 15 (Theo quyết định phân công bổ nhiệm số 5079/QĐ-CT ngày 27/12/2017 của Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh). Tổng số nhân viên dưới quyền có: 01 đội phó là Trần Anh T (Quyết định số 5080/QĐ-CT ngày 27/12/2017 của Cục thuế TP.Hồ Chí Minh) và 07 nhân viên.

Nhiệm vụ được giao của Đội thuế Liên xã, phường: Đội trưởng hoặc Phó Đội trưởng Đội thuế liên xã, phường, thị trấn hoặc tương đương là Thành viên thường trực Hội đồng tư vấn thuế (HĐTVT), có các nhiệm vụ: Tư vấn về mức doanh thu dự kiến, mức thuế của các hộ kinh doanh trên địa bàn; của hộ kinh doanh mới ra kinh doanh; và Tư vấn về mức thuế miễn, giảm đối với hộ kinh doanh. Đội thuế Liên xã phường (LXP) có trách nhiệm trong công tác quản lý thường xuyên trên địa bàn, phối hợp quản lý trạng thái hoạt động và khai thuế, phối hợp đưa ra dự kiến doanh thu và miễn thuế khoán của cá nhân kinh doanh, xác nhận tài liệu công khai thông tin, lấy ý kiến tham vấn của HĐTVT, tiếp nhận ý kiến phản hồi về doanh thu mức thuế khoán dự kiến, lập danh sách làm tài liệu họp tham vấn ý kiến HĐTVT, chuẩn bị làm tài liệu duyệt chính thức Sổ bộ thuế (ổn định và phát sinh)… Các Đội thuế Liên phường chủ động khảo sát điều chỉnh doanh thu, điều chỉnh xem xét xác định mức thuế khoán phù hợp.

Với chức trách nhiệm vụ được giao Phan Thị Diệu C và các cán bộ dưới quyền gồm Trần Anh T (Đội phó), Lâm Hữu H và Nguyễn Thị Bạch H tiếp tờ khai thuế của các hộ cá nhân kinh doanh, kiểm tra và xây dựng mức thuế khoán năm 2019 đối với các hộ kinh doanh này. Quá trình nhận hồ sơ, tờ khai, 04 bị cáo đã tiếp xúc với một số hộ kinh doanh đặt vấn đề xem xét áp mức tăng thuế năm 2019 thấp, qua đó nhận tiền bồi dưỡng của những hộ này.

Ngày 21/12/2018, ông Diệp Hải H là chủ tiệm kinh doanh phụ tùng xe máy Lục Phong, địa chỉ số 98I Dương Tử Giang, Phường 15, Quận 5 có làm đơn tố cáo đến Công an Quận 5 về việc bị cán bộ thuế quản lý địa bàn tên Lâm Hữu H cùng bà Phan Thị Diệu C là Đội trưởng Đội thuế Liên Phường 3 thuộc Chi cục thuế Quận 5 yêu cầu đưa số tiền 20.000.000 đồng để xét áp mức khoán thuế của năm 2019 tăng ít (tăng 300.000 đồng) cho cửa hàng, nếu không sẽ bị tăng thuế lớn hơn 10.000.000 đồng/tháng. Sau đó, vào ngày 24/12/2018, ông Diệp Hải H đến trụ sở Đội thuế Liên Phường 3 làm việc với Phan Thị Diệu C và Lâm Hữu H. Nội dung buổi làm việc đã được ông Diệp Hải H chủ động ghi âm rồi giao nộp cho Công an Quận 5 để làm chứng cứ tố cáo hành vi đòi hối lộ của Phan Thị Diệu C và Lâm Hữu H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã lập biên bản thu giữ và niêm phong 01 chiếc USB chứa nội dung đoạn ghi âm trên.

Cùng ngày 22/12/2018, Công an Quận 5 tiếp nhận đơn tố cáo của bà Đoàn Thị V là chủ cửa hàng kinh doanh phụ tùng xe máy số 145/1 Dương Tử Giang, Phường 15, Quận 5 về việc vào ngày 12/12/2018 đã bị Lâm Hữu H cùng Phan Thị Diệu C yêu cầu đưa số tiền 12.000.000 đồng để xét áp mức thuế khoán của năm 2019 tăng ít (tăng 300.000 đồng) cho cửa hàng, nếu không sẽ tăng thuế lên hơn 4.000.000 đồng/tháng. Do lo sợ bị tăng thuế cao nên ngày 22/12/2018, Đoàn Thị V đã đưa trước cho Phan Thị Diệu C số tiền là 6.000.000 đồng tại bàn làm việc của Phan Thị Diệu C, đồng thời chủ động ghi âm việc giao tiền này và giao nộp cho Công an Quận 5 làm chứng cứ tố cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã lập biên bản thu giữ 01 chiếc USB chứa nội dung đoạn ghi âm trên.

Đến khoảng 11 giờ 15 ngày 26/12/2018, Lâm Hữu H sử dụng xe máy PCX biển số 59H1 – 181.35 đến cửa hàng kinh doanh phụ tùng xe máy Lục Phong, địa chỉ số 98I Dương Tử Giang, Phường 15, Quận 5 nhận số tiền là 10.000.000 đồng của ông Diệp Hải H thì bị Công an Quận 5 bắt quả tang, thu giữ số tiền 10.000.000 đồng, gồm 20 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng được đựng trong 01 phong bì có chữ “Cửa hàng Lục Phong 98I Dương Tử Giang – gửi chị Chi Thuế Q5”. Toàn bộ sự việc đưa tiền cho Lâm Hữu H như trên đã được ông Diệp Hải H chủ động ghi âm cùng với đoạn clip ghi hình do camera tại cửa hàng quay lại được chuyển giao Công an Quận 5. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã lập biên bản thu giữ và niêm phong 01 chiếc USB chứa 03 đoạn ghi âm và 02 đoạn video clip trên. Đồng thời, qua kiểm tra người và phương tiện xe máy của Hậu sử dụng đã thu thêm và niêm phong số tiền 45.600.000 đồng.

Vào cùng thời điểm, khoảng 11 giờ 15 phút ngày 26/12/2018, bà Đoàn Thị V đem một phong bì đựng số tiền 6.000.000 đồng đến phòng làm việc của Đội thuế Liên Phường 3 tại Phòng 4.1 tầng 4, số 105-107 Phùng Hưng, Phường 13, Quận 5 gặp Phan Thị Diệu C đang ngồi tại bàn làm việc và đưa phong bì tiền trên cho Phan Thị Diệu C. Phan Thị Diệu C vừa cất phong bì tiền vào trong hộc ngăn tủ kéo giữa của bàn làm việc, Vân chào Chi định ra về thì liền bị tổ công tác Công an Quận 5 ập vào kiểm tra, yêu cầu Phan Thị Diệu C xuất trình phong bì tiền vừa cất vào hộc tủ ra bàn để kiểm tra, ghi nhận bên ngoài phong bì có đề “Em Vân 145/1 Dương Tử Giag P.15/Q5- Gửi chị Chi Thuế Q5” bên trong là số tiền 6.000.000 đồng gồm 12 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Cuộc trò chuyện giao nhận tiền này cũng được Đoàn Thị V chủ động ghi âm và photo trước từng tờ tiền với nguyên số seri, do đó Công an Quận 5 đã kết hợp với Công an Phường 13, Quận 5 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phan Thị Diệu C về hành vi nhận hối lộ để tiếp tục xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã lập biên bản thu giữ 01 chiếc USB chứa nội dung đoạn ghi âm trên và niêm phong.

Tiến hành khám xét bàn làm việc của Đoàn Thị V tại Phòng 4.1 tầng 4, số 105-107 Phùng Hưng, Phường 13, Quận 5 phát hiện bên trong ngăn kéo giữa bàn còn có một phong bì có đề chữ “Cô Chi Thuế” đựng số tiền 2.500.000 đồng, một bao lì xì đỏ đựng 300.000 đồng, một cọc tiền tổng cộng là 86.000.000 đồng được quấn bên ngoài bằng 01 tờ giấy trắng có chữ viết ghi tên nhiều người cùng các ký hiệu chữ số. Thu giữ lại hộc tủ cửa mở phía dưới 01 túi xách cá nhân của Đoàn Thị V bên trong có chứa: 05 xấp tiền cột riêng lần lượt là 20.000.000 đồng (tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng), 2.000.000 đồng (tờ mệnh giá 100.000 đồng), 12.000.000 đồng (tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng), 12.000.000 đồng (tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng), 31.300.000 đồng (tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng) và 01 tờ tiền nước ngoài; 01 bao lì xì có 2.500.000 đồng kèm 03 tờ tiền nước ngoài; 01 phong bì đựng số tiền 51.000.000 đồng kèm 01 tờ giấy vàng ghi chú có ký hiệu chữ số; 01 xấp tiền 15.000.000 đồng và 01 xấp tiền 15.500.000 đồng được quấn trong 02 tờ giấy trắng có chữ viết ghi tên nhiều người cùng các ký hiệu chữ số. Tổng cộng là 250.100.000 đồng và 04 tờ tiền nước ngoài. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong toàn bộ số vật chứng trên và đưa các đối tượng về Công an Phường 13, Quận 5 làm việc.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã làm rõ về hành vi phạm tội của các đối tượng như sau:

Đối với các hành vi của Phan Thị Diệu C cùng thực hiện với Lâm Hữu H:

Phan Thị Diệu C khai nhận: Đối với 02 trường hợp của Đoàn Thị V và Diệp Hải H đều có gặp trực tiếp Đoàn Thị V để thỏa thuận xin giúp việc áp mức thế khoán năm 2019 tăng ít. Cụ thể, mỗi trường hợp chỉ tăng 300.000 đồng, đổi lại việc Đoàn Thị V sẽ phải đưa cho Phan Thị Diệu C số tiền mỗi tháng là 1.000.000 đồng, tương đương 01 năm là 12.000.000 đồng, nhưng Chi không đồng ý nhận tiền mỗi tháng mà kêu Đoàn Thị V phải đưa một lần. Ngày 22/12/2018, Đoàn Thị V đã trực tiếp đưa cho Phan Thị Diệu C tại bàn làm việc là 6.000.000 đồng, Phan Thị Diệu C khai đã tiêu xài hết. Ngày 26/12/2018 Đoàn Thị V đưa tiếp 6.000.000 đồng còn lại thì bị bắt quả tang. Đối với Diệp Hải H thì Phan Thị Diệu C chỉ thừa nhận việc đã đồng ý số tiền mà Diệp Hải H nêu là 10.000.000 đồng, Phan Thị Diệu C cho rằng Lâm Hữu H đã tự ý nâng giá không báo Phan Thị Diệu C biết nhưng ngày 26/12/2018 khi Hiền gọi điện thoại hẹn lên đưa trực tiếp số tiền 10.000.000 đồng còn lại thì Chi vẫn kêu cứ đưa cho Lâm Hữu H. Ngoài ra, Chi không thừa nhận việc nhận tiền của ông Trương Hoài C (Hương ốc kiểu) đưa 20.000.000 đồng và của hộ ông Nguyễn Văn C đưa 10.000.000 đồng.

Lâm Hữu H khai nhận: Vào ngày 24/12/2018, Diệp Hải H có đến trụ sở làm việc với Phan Thị Diệu C, Lâm Hữu H chứng kiến việc Diệp Hải H thỏa thuận bồi dưỡng cho Phan Thị Diệu C theo mức cũ của các năm trước là 10.000.000 đồng trong việc “giúp áp dụng khoán thuế tăng ít” nhưng Chi không đồng ý, việc thỏa thuận tiếp theo Hậu không để ý cụ thể nhưng sau đó Hiền cầm 01 xấp tiền đưa cho Chi thì Chi kêu đưa cho Hậu giữ, Hiền có nói rõ đưa trước 10.000.000 đồng khi nào có tiền sẽ đưa thêm 10.000.000 đồng nữa nên Hậu nhận biết số tiền qua thỏa thuận Chi kêu Hiền phải đưa là 20.000.000 đồng. Qua ngày 26/12/2019, Hậu đến tiệm của ông Hiền để nhận tiếp 10.000.000 đồng còn lại thì bị Công an Quận 5 bắt quả tang. Đối với hộ kinh doanh Đoàn Thị Vân, Hậu khai do Vân trực tiếp thỏa thuận việc yêu cầu điều chỉnh mức thuế với Chi, sau đó được Chi báo lại Vân đã đồng ý đưa 12.000.000 đồng và đã đưa trước 1 lần là 6.000.000 đồng, hẹn lần sau sẽ tiếp tục đưa đủ, Hậu chưa được chia số tiền này. Do Chi là người quyết định mức thuế các hộ kinh doanh phải đóng là bao nhiêu nên Chi thường trực tiếp thỏa thuận với các chủ tiệm rồi báo giá cho Hậu để gặp họ lấy tiền về đưa cho Chi. Ngoài trường hợp của Vân và Hiền, với phương thức xét mức khoán thuế năm 2019 tương tự, Chi còn kêu ông Trương Hoài Châu (Hương ốc kiểu) đưa 20.000.000 đồng và tiệm ông Nguyễn Văn Cảnh đưa 10.000.000 đồng, Chi kêu Hậu trực tiếp đến cửa hàng của những người này lấy tiền đem về cho Chi. Hậu được Chi chia lại 5.000.000 đồng của tiệm ông Châu và 3.000.000 đồng tiệm ông Cảnh. Hậu còn cho biết những người trong Đội thuế do Chi quản lý đều thu tiền của các hộ kinh doanh để điều chỉnh áp thuế, khi các nhân viên thuế quản lý địa bàn thu đủ số tiền mà Chi yêu cầu thì khi Chi hỏi sẽ cộng tiền lại và ghi vào tờ giấy nhỏ nội dung địa chỉ, tên hộ kinh doanh rồi đưa trực tiếp cho Chi tại bàn làm việc để Chi giữ. Việc nhận tiền hối lộ từ các hộ kinh doanh để giúp điều chỉnh việc áp mức thuế khoán như trên đều chủ yếu do Chi quyết định mức giá để hộ kinh doanh phải đưa và Chi quyết định mức tỉ lệ phân chia số tiền này cho Hậu từ 20% - 30% trên tổng số tiền nhận hối lộ có được.

Đối với hộ của ông Trương Hoài Châu (Hương ốc kiểu) có đơn tố cáo Phan Thị Diệu Chi đã nhận số tiền 20.000.000 đồng của ông Châu để xem xét áp mức thuế khoán ít. Nội dung tố cáo của ông Châu phù hợp với lời khai của Lâm Hữu Hậu.

Đối với hộ của ông Nguyễn Văn Cảnh có đơn tố cáo Lâm Hữu Hậu đã nhận số tiền 10.000.000 đồng của ông Cảnh để xem xét tăng mức thuế khoán ít, bản thân ông Cảnh xác nhận không thỏa thuận gì với Chi.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã tiến hành trưng cầu giám định giọng nói tại C09B – Bộ Công an xác đinh giọng nói qua các đoạn ghi âm do Diệp Hải Hiền và Đoàn Thị Vân cùng cấp xác định đúng là giọng nói của Phan Thị Diệu Chi và Lâm Hữu Hậu; tiến hành trưng cầu giám định hình ảnh người trực tiếp có hành vi nhận tiền qua video clip do Diệp Hải Hiền cung cấp xác định là Lâm Hữu Hậu.

Như vậy, Phan Thị Diệu Chi thông đồng với Lâm Hữu Hậu nhận các khoản tiền 12.000.000 đồng của Đoàn Thị Vân và 20.000.000 đồng của ông Diệp Hải Hiền, 20.000.000 đồng của ông Trương Hòai Châu. Tổng cộng, Chi và Hậu đã nhận 52.000.000 đồng. Chi thực nhận 27.000.000 đồng, Hậu thực nhận 25.000.000 đồng. Ngoài ra, Hậu còn trực tiếp nhận của hộ ông Nguyễn Văn Cảnh là 10.000.000 đồng.

Đối với hành vi của Phan Thị Diệu Chi cùng thực hiện với Nguyễn Thị Bạch Hường:

Phan Thị Diệu Chi khai nhận: 01 cọc tiền 86.000.000 đồng gồm có 03 xấp được quấn chung bằng 01 tờ giấy trắng (danh sách có tên 17 trường hợp hộ kinh doanh) là của Nguyễn Thị Bạch Hường thu của những cá nhân, hộ kinh doanh cá thể thuộc địa bàn do Hường quản lý để giúp họ trong việc xét tăng mức khoán thuế thấp, việc xét mức khoán thuế này phải thông qua sự đồng ý của Chi nên Hường đã tự rút giữ lại phần của mình rồi lập danh sách (những người có tên đưa tiền) kèm phần tiền Chi được hưởng riêng để đưa cho Chi ngay trước khi bị Công an Quận 5 bắt quả tang vụ của Vân. Chữ viết trên danh sách đính kèm này là của Hường tự ghi.

Nguyễn Thị Bạch Hường khai nhận: Hường là cán bộ thuế quản lý địa bàn thuộc Đội thuế Liên Phường 3, Chi cục thuế Quận 5 do Phan Thị Diệu Chi làm Đội trưởng, Hường thừa nhận việc cán bộ quản lý địa bàn đến hộ cá nhân kinh doanh trực tiếp thu hộ tiền thuế là sai quy trình nhưng do đội trưởng Chi đồng thuận với bản thân có lợi ích vật chất từ việc các hộ kinh doanh gửi thêm tiền bồi dưỡng ngoài tiền đóng thuế nên vẫn thực hiện. Ngày 26/12/2018, Hường nhận tiền hối lộ từ 17 trường hợp hộ kinh doanh trong địa bàn quản lý của mình theo yêu cầu của Chi, đem về đưa cho Chi để được giúp đỡ xem xét tăng mức thuế khoán năm 2019, Hường thu tiền đối với trường hợp và ghi thành danh sách kẹp với tổng số tiền là 109.000.000 đồng, Hường tự lấy phần của Hường được hưởng 54.500.000 đồng và đưa cho Chi 54.500.000 đồng. Tuy nhiên, có 05 trường hợp (gồm: Ngô Thị Kiều Hương, Võ Hùng Tâm đưa 10.000.000 đồng, Hồ T.Long đưa 5.000.000 đồng, Huỳnh Hữu Trí đưa 6.000.000 đồng, Hồng Thanh Bình đưa 4.000.000 đồng, Chung Đạt Vinh đưa 8.000.000 đồng) đã thỏa thuận thống nhất mức tiền bồi dưỡng với Hường nhưng chưa đưa tiền, tổng cộng là 33.000.000 đồng. Do đó, Hường đã dùng số tiền mình được hưởng để ứng trước đưa cho Chi, đồng thời có gửi cho Chi giữ dùm số tiền mà các hộ nhờ Hường đóng thuế là 31.000.000 đồng. Tổng cộng Hường đưa cho Chi là 85.500.000 đồng, nhưng do Hường đưa nhầm 500.000 đồng, do đó Hường đã đưa cho Chi (kèm theo danh sách ghi tên 17 trường hợp) tổng cộng 86.000.000 đồng. Theo kết luận giám định số 481/KLGĐ-TT ngày 25/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận danh sách 17 trường hợp thu tiền của các hộ là chữ viết của Nguyễn Thị Bạch Hường ghi ra.

Qua làm việc với những người có tên trong danh sách gồm 17 trường hợp, trong đó có 06 trường hợp (Nguyễn Thị Thanh Tuyền đưa 10.000.000 đồng, Lý Sắc Quang đưa 6.000.000 đồng, Vòng Cún Sáng đưa 5.000.000 đồng, Nguyễn Dương Hoài Phúc đưa 10.000.000 đồng, Ngô Gia Thuận đưa 6.000.000 đồng, Tiêu Chí Vinh đưa 5.000.000 đồng) chủ động tố cáo việc bị Hường và Chi gợi ý đưa tiền để được giúp đỡ trong việc áp mức thuế khoán năm 2019 phù hợp với số tiền thể hiện trong danh sách, có 08 trường hợp (Ngô Thị Kiều Hương, Võ Hùng Tâm đưa 10.000.000 đồng, Chung Đạt Vinh đưa 8.000.000 đồng, Tô Tuấn Anh đưa 3.000.000 đồng, Tô Thúy Vân đưa 3.000.000 đồng, Trần Đức Nhơn đưa 8.000.000 đồng) khai nhận đưa tiền cho Hường (phù hợp với số tiền thể hiện ở danh sách) nhưng cho rằng là tiền đóng thuế đưa cho Hường thu nộp hộ và tự nguyện bồi dưỡng tiền nộp thuế dư, có 02 trường hợp (Huỳnh Minh Tài đưa 8.000.000 đồng, Lý Khải Phú đưa 7.000.000 đồng) không thừa nhận việc đưa tiền cho Hường, có 01 trường hợp (Hồ T.Long đưa 5.000.000 đồng) không xác định được lai lịch.

Ngoài ra, có 01 trường hợp Chi tự thỏa thuận và trực tiếp nhận tiền của hộ Nguyễn Thành Châu, Hường không rõ đưa cho Chi bao nhiêu, nhưng ngày 26/12/2018 (trước khi Chi bị Công an Quận 5 bắt) thì Chi có báo cho Hường biết đã nhận tiền từ hộ này đồng thời đưa lại cho Hường số tiền 14.000.000 đồng kèm một mảnh giấy vàng có chữ viết của Chi ghi “Nguyễn Lâm Gia Bảo – Nguyễn Thành Châu – A.Sơn 14 – C.Hường 14 – Chi 12 – 40” (Hường đã tự nguyện nộp mảnh giấy trên cho Công an Quận 5 lập biên bản thu giữ). Theo kết luận giám định số 925/KLGĐ-TT ngày 28/05/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận chữ viết trong mảnh giấy vàng là chữ của Phan Thị Diệu Chi viết ra.

Lời khai và mảnh giấy của Hường giao nộp về hộ Nguyễn Thành Châu phù hợp với nội dung đơn tố cáo trước đó của ông Nguyễn Thành Châu là chủ 02 hộ kinh doanh với số 48 Tạ Uyên và 45/7 Tạ Uyên Phường 15, Quận 5 (do em của Châu tên Nguyễn Lâm Gia Bảo đứng tên) về việc bị Đội trưởng Chi lấy lý do xét tăng mức thuế khoán năm 2019 để yêu cầu chung chi tiền hối lộ để giúp đỡ xét cho 02 hộ kinh doanh trên. Chi đã yêu cầu Châu số tiền 60.000.000 đồng nhưng Châu năn nỉ 30.000.000 đồng thì Chi không đồng ý mà chỉ đồng ý với số tiền là 40.000.000 đồng cho Chi tại bàn làm việc tại trụ sở Đội thuế Liên Phường 3.

Như vậy, Phan Thị Diệu Chi thông đồng với Nguyễn Thị Bạch Hường nhận hối lộ của 18 hộ cá nhận kinh doanh và phải chịu trách nhiệm với số tiền nhận hối lộ là 149.000.000 đồng, Nguyễn Thị Bạch Hường phải chịu trách nhiệm với số tiền nhận hối lộ là 123.000.000 đồng. Số tiền Chi được chia là 80.500.000 đồng, Hường nhận được chia 68.500.000 đồng. Tuy nhiên, thực chất Hường chỉ nhận được số tiền 33.000.000 đồng, Hường đã giao nộp Cơ quan điều tra 33.000.000 đồng.

Đối với hành vi phạm tội của Phan Thị Diệu Chi cùng thực hiện với Trần Anh T:

Cơ quan điều tra xác minh làm rõ 01 xấp tiền 15.000.000 đồng quấn trong 01 tờ giấy (danh sách có tên 4 trường hợp với số tiền 30.000.000 đồng) với 01 xấp tiền 15.500.000 đồng quấn trong 01 tờ giấy (danh sách có tên 5 trường hợp với số tiền 31.000.000 đồng).

Phan Thị Diệu Chi khai nhận: Số tiền thể hiện trong danh sách trên là của các hộ đưa cho Trần Anh T (Đội phó phụ trách địa bàn), chữ viết trên danh sách là của Tuấn ghi, số tiền trên danh sách và thực tế có sự chênh lệch là do Tuấn đã tự rút ra phần của mình trước khi trích lại một phần đưa cho Chi, số tiền thực tế là phần Chi được hưởng riêng.

Trần Anh T khai nhận: Tuấn là đội phó Đội thuế Liên phường 3 Chi cục thuế Quận 5 do Phan Thị Diệu Chi làm Đội trưởng, Tuấn thừa nhận việc cán bộ quản lý địa bàn đến hộ kinh doanh trực tiếp thu hộ tiền thuế là sai quy trình nhưng do Đội trưởng Chi đồng thuận và bản thân có lợi ích vật chất từ việc các hộ kinh doanh gửi thêm tiền bồi dưỡng ngoài tiền đóng thuế nên vẫn thực hiện. Ngoài tiền bồi dưỡng Tuấn thừa nhận việc có nhận hối lộ từ một số hộ kinh doanh (trong địa bàn quản lý của mình) theo yêu cầu của Chi, đem về đưa cho Chi để được giúp đỡ xem xét tăng mức thuế khoán thấp năm 2019, còn lại thì Chi tự đi thu. Mức tiền bồi dưỡng do Chi yêu cầu, Tuấn trực tiếp báo lại các hộ kinh doanh và thu tiền. Nếu các hộ kinh doanh không đưa tiền bồi dưỡng sẽ bị áp mức thuế khoán cao. Tuấn cho biết, Chi chỉ đạo Tuấn phải đặt vấn đề với khoảng 16 hộ kinh doanh phải đưa tiền hối lộ nhưng Tuấn chỉ làm việc với 09 hộ và thu được 61.000.000 đồng đem về thống kê ra giấy kẹp vào tiền đưa Chi tại Chi cục thuế Quận 5 thì Chi chia đôi đưa lại cho Tuấn một nửa là 30.500.000 đồng. Tuấn xác định Đội trưởng Chi là người trực tiếp đề xuất lên cấp trên để đặt mức thuế khoán hàng năm, căn cứ tình hình thực tế để Chi quyết định. Tuấn nhận thức việc làm là vi phạm nhưng do được hưởng lợi thì Chi là cấp trên áp đặt xuống nếu không nghe theo sẽ ảnh hưởng đến công tác hàng ngày.

Lời khai của Tuấn phù hợp với nội dung tố cáo của các hộ kinh doanh. Phan Châu Toàn đưa 4.000.000 đồng, Trần Lê Kiều Bích (cùng em: Trần Lê Bích Thảo) đưa 10.000.000 đồng, Lâm Kiết Vân đưa 5.000.000 đồng, Lại Nghiệp Hữu đưa 10.000.000 đồng, Châu Thế Vinh (cùng chủ hộ Vương Kiến Minh) đưa 5.000.000 đồng, Đặng Thị Dung ( cùng chồng: Lê Văn Ty) đưa 5.000.000 đồng, Lục Mỹ Thế đưa 10.000.000 đồng, Phan Thị Ánh Nguyệt đưa 10.000.000 đồng. Ngoài ra, có hộ Châu Thị Hối (cùng chị” Châu Thị Phan) cho rằng tự nguyện bồi dưỡng Tuấn 2.000.000 đồng nhưng Tuấn tự hiểu nhầm là tiền hối lộ nên báo lại và ăn chia với Chi.

Đối với trường hợp hộ Võ Thụy Mai Phương kinh doanh tại 62-64 Phùng Hưng, Phường 13, Quận 5, Tuấn khai được Chi yêu cầu Tuấn xuống đặt vấn đề với hộ kinh doanh này đến Chi cục thế làm việc riêng với Chi. Lời khai trên phù hợp với nội dung tố cáo trước đó của ông Trần Văn Ía (chủ hộ kinh doanh Võ Thụy Mai Phương) về việc từ năm 2016-2018 hàng tháng bị Chi yêu cầu phải đưa 1.000.000 đồng tiền bồi dưỡng nếu không sẽ bị gây khó khăn trong việc kinh doanh buôn bán và Tuấn trực tiếp đến cửa hàng thu số tiền này, ngoài ra mỗi dịp cuối năm Chi đều mời ông Ía đến trụ sở Đội thuế yêu cầu đưa thêm 5.000.000 đồng để được giúp trong việc xét áp mức thuế khoán mới, nếu không đưa sẽ bị áp mức thuế cao thì ông Ía đều lấy lí do hoàn cảnh khó khăn để chỉ đưa số tiền 3.000.000 đồng thì Chi vẫn đồng ý và nhận tiền trực tiếp tại bàn làm việc. Mặc dù, Chi không thừa nhận có nhận tiền 3.000.000 đồng của ông Ía nhưng đủ cơ sở buộc Chi chịu trách nhiệm về số tiền này.

Theo kết luận giám định số 481/KLGĐ-TT ngày 25/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chữ viết trên 02 danh sách là chữ viết của Trần Anh T viết ra. Qua làm việc với những người có tên trong danh sách này có 07 trường hợp chủ động tố cáo bị Tuấn và Chi ép buộc phải chung tiền để được giúp đỡ trong việc xét áp mức thuế khoán 2019 phù hợp với số tiền thể hiện trên danh sách; 01 trường hợp trực tiếp đưa tiền cho Chi và Chi đưa lại cho Tuấn; có 01 trường hợp khai nhận đã đưa tiền cho Tuấn (phù hợp số tiền thể hiện ở danh sách) nhưng cho rằng do tự nguyện bồi dưỡng, không bị ép buộc.

Như vậy, tổng số tiền Phan Thị Diệu Chi thông đồng với Trần Anh T nhận hối lộ là 61.000.000 đồng. Chi thực nhận 30.500.000 đồng, Tuấn thực nhận 30.500.000 đồng. Tuấn đã giao nộp lại cho Cơ quan điều tra 30.500.000 đồng.

Đối với những tài sản còn lại thu giữ được tại bàn làm việc của Phan Thị Diệu Nhi gồm: 01 phong bì viết tay “cô Chi Thuế” trong có số tiền 2.500.000 đồng thì Chi khai nhận do hộ kinh doanh Hồ Muối bán heo quay tại Chợ Nguyễn Thời Trung, Phường 6, Quận 5 tự nguyện cho, do được Chi giúp tăng thuế ít (tăng 500.000 đồng) chứ Chi không đòi hỏi. Ông Đàm Hòa Tử là chủ hộ kinh doanh Hồ Muối đã có đơn tố cáo việc bị Chi ép buộc hàng tháng phải đưa số tiền 1.500.000 đồng, thời điểm cuối năm 2018 ông Tử trực tiếp viết chữ trên phong bì và bỏ vào đó số tiền là 3.800.000 đồng để đưa cho Chi trước khi bị Công an Quận 5 phát hiện thu giữ phong bì trên. Số tiền 162.000.000 đồng và 4 tờ tiền nước ngoài Chi khai là tiền cá nhân mang để đóng học phí cho con là Phạm Minh Đức, qua xác minh thì Đức có học tại trường Vinschool với mức học phí tương đương với số tiền mà Chi khai nhận.

Riêng 04 tờ tiền nước ngoài là tiền lì xì trong những ngày Tết, Chi mang theo để may mắn.

Qua kiểm tra dữ liệu tin nhắn lưu trên điện thoại của Chi ghi nhận có 07 đoạn hội thoại tin nhắn có nội dung thể hiện việc các cá nhân khác đã gửi tiền, quà nhiều lần cho Chi và một số tin được Chi trả lời là cảm ơn, số tiền có thể hiện ít nhất là 2.000.000 đồng, nhiều nhất là 40.000.000 đồng. Trong đó có 05 trường hợp phù hợp với đơn tố cáo bị các cán bộ thuế vòi vĩnh buộc đưa tiền, cụ thể: Nguyễn Tri Hiếu tố cáo vào cuối năm 2016 đưa 20.000.000 đồng, năm 2017 đưa 40.000.000 đồng và năm 2018 đưa 20.000.000 đồng; Nguyễn Thị Thanh Tuyền bị ép đưa hối lộ số tiền 10.000.000 đồng; Lê Hoàng Sinh bị ép đưa tiền hối lộ số tiền là 1.000.000 đồng; Trần Thị Tuyết bị ép đưa hối lộ số tiền 2.000.000 đồng; Đoàn Hữu Giáo bị ép đưa 4.000.000 đồng nhưng chưa kịp lấy tiền. Ngoài ra, có 02 trường hợp là Lê Việt Vinh cho biết là tự nguyện tặng quà phong bì 300.000 đồng cho Chi, Nguyễn Thị Ngoan tự nguyện tặng quà là 02 hộp sữa để tạo mỗi quan hệ với Chi.

Phan Thị Diệu Chi khai không nhận số tiền trên, tin nhắn trên điện thoại không thể hiện nội dung Chi xác nhận đã nhận tiền, do đó ngoài nội dung tố cáo của các hộ kinh doanh không còn chứng cứ khác chứng minh việc đưa và nhận hối lộ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đủ cơ sở để buộc Chi phải chịu trách nhiệm đã nhận hối lộ số tiền này.

Đối với việc xem xét trách nhiệm của một số cán bộ thuế có nhận tiền hối lộ theo đơn tố cáo của hộ kinh doanh. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã triệu tập một số cán bộ công chức thuộc Đội thuế Liên Phường 3 đến trụ sở đấu tranh khai thác, gồm:

- Hộ kinh doanh 72 Phạm Hữu Chí cho biết có nhờ Lê Tiến Dũng, nhân viên Đội thuế Liên Phường 3 thu nộp thuế hộ, thỉnh thoảng cho 200.000 đồng đến 300.000 đồng, cuối năm 2018 chủ động tặng Dũng 500.000 đồng và 01 thùng bia, ngoài ra, Tết trung thu có tự nguyện tặng phong bì 300.000 đồng cho bà Chi.

- Hộ kinh doanh 41 Thuận Kiều tố cáo từ 2016 đến nay, mỗi cuối năm đều bị Phan Thị Diệu Chi ép đưa tiền để giúp mức thuể khoán, cụ thể năm 2016 đưa 20.000.000 đồng, năm 2017 đưa 40.000.000 đồng do Phạm Hồng Thắng, nhân viên đội thuế Liên Phường 3 ghé nhận và năm 2018 đưa 20.000.000 đồng do Trần Lý Trung Khương, nhân viên Đội thuế Liên Phường 3 ghé nhận.

Kết quả làm việc, các cán bộ thuế nếu trên đều không thừa nhận việc có đến các hộ kinh doanh thu thuế hộ, không thừa nhận việc có nhận tiền bồi dưỡng hoặc vòi vĩnh ép buộc các hộ kinh doanh phải chung chi tiền bạc, lợi ích vật chất, cũng không thừa nhận nội dung tố cáo của các hộ kinh doanh có liên quan. Do đó, chưa đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, chưa đủ căn cứ xem xét đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân trên, Công an Quận 5 chuyển giao thông tin, thông báo đến Chi cục thuế Quận 5 được biết để có hình thức tự kiểm tra xử lý sai phạm của các cán bộ, công chức nếu trên.

Đối với người tên Sơn được ghi trên mảnh giấy ghi chú của Chi: Tại mảnh giấy vàng có ghi nội dung: “Nguyễn Lâm Gia Bảo – Nguyễn Thành Châu – A.Sơn 14 – C.Hường 14 – Chi 12 – 40”. Nguyễn Thị Bạch Hường khai được Chi thông báo có nhận tiền của hộ Nguyễn Thành Châu và chia cho Hường 14.000.000 đồng phù hợp với nội dung “C.Hường – 14”, các nội dung khác Hường không biết. Phan Thị Diệu Chi không hợp tác, khai báo quanh co, không khai người tên Sơn là ai. Xác minh Đội thuế Liên Phường 3 có nhân viên Nguyễn Văn Sơn được phân công quản lý địa bàn nơi hộ Nguyễn Lâm Gia Bảo kinh doanh. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Sơn khai không biết, không liên quan sự việc Chi nhận tiền của Nguyễn Lâm Gia Bảo, Nguyễn Thành Châu. Do chưa đủ thông tin về đối tượng tên Sơn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 tiếp tục truy xét để xử lý sau.

Đối với các tiểu thương, hộ kinh doanh cá thể có hành vi đưa tiền cho cán bộ thuế liên quan đã thừa nhận hành vi và chủ động tố cáo đến Cơ quan Công an, đều có hành vi dùng lợi ích vật chất là tiền để đưa hoặc thỏa thuận hứa sẽ đưa hối lộ cho các cán bộ thuế thuộc Đội thuế Liên Phường 3 như trên nhằm mục đích được hưởng lợi ích từ việc xem xét áp mức thuế khoán mới tăng ít, hưởng thụ từ việc giảm số tiền nộp thuế hàng tháng phải nộp ngân sách Nhà nước hoặc từ việc không bị các cán bộ thuế gây khó khăn trong kinh doanh, nên hành vi trên có dấu hiệu phạm tội “ Đưa hối lộ” được quy định tại Điều 364 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, căn cứ khoản 7 Điều 364 quy định việc người đưa hối lộ chủ động khai báo trước khi bị phát giác được coi là không có tội hoặc có thể miễn trách nhiệm hình sự;

Đối với các hộ kinh doanh xác định có hành vi đưa tiền cho các bị cáo nhưng không thừa nhận hành vi đưa hối lộ: hộ Châu Thị Hối đưa cho Trần Anh T 2.000.000 đồng; 11 hộ đưa tiền cho Nguyễn Thị Bạch Hường nhưng chỉ khai là tiền bồi dưỡng, tiền đóng thuế hộ, không có ý thức đưa hối lộ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 xác định chưa đủ chứng cứ chứng minh tội phạm nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp này.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 21/2020/HS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Căn cứ điểm đ khoản 2, khoản 5 Điều 354; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): xử phạt bị cáo Trần Anh T 06 (sáu) năm tù về tội: “Nhận hối lộ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên phạt đối với các bị cáo Phan Thị Diệu Chi, Lâm Hữu Hậu, Nguyễn Thị Bạch Hường; Tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trần Anh T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc xét xử vụ án: Sau khi Tòa án nhân dân Quận 5 xét xử sơ thẩm, Bị cáo Trần Anh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ, nên được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Tại Tòa án cấp phúc thẩm bị cáo Trần Anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vắng mặt không có lý do. Mặc dù bị cáo vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử, nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo Trần Anh T là có cơ sở.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Trần Anh T phạm tội “Nhận hối lộ” là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Mức án 06 năm tù Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt là tương xứng với t ín h ch ất mức đ ộ hành vi phạm tội c ủa bị cáo. Tuy nhiên xét thấy hiện nay bị cáo Tuấn đang bị bệnh, sức khỏe rất yếu. Nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Anh T, giảm cho bị cáo một phần hình phạt từ 03 đến 06 tháng tù.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Anh T là Luật sư ……………. trình bày quan điểm bào chữa như sau: Không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh cũng như mức hình phạt 06 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên phạt đối với bị cáo. Chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Trần Anh T cụ thể như sau:

Trong quá trình công tác bị cáo đã có nhiều thành tích được tặng thưởng nhiều Giấy khen, Bằng khen; Bị cáo bị bệnh mạch nền, khối u trong não, hiện nay tình trạng sức khỏe rất xấu; Bị cáo có hành vi nhận tiền của các hộ dân nhưng với số tiền không lớn, sau khi phạm tội đã nộp lại; Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, i, q, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Trần Anh T, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát không tranh luận với Luật sư, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các đề nghị của Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1/ Về tố tụng:

Ngày 25/2/2020 bị cáo Trần Anh T bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Nhận hối lộ” theo điểm đ khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ.

Tại phiên tòa bị cáo vắng mặt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ. Tại phiên tòa, bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng, tuy nhiên có mặt Người bào chữa cho bị cáo và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ khoản 2 Điều 290; điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Về nội dung :

Xét lời khai của bị cáo Trần Anh T tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo Chi và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội "Nhận hối lộ" là có căn cứ đúng người, đúng tội.

Nhận thấy: Bị cáo Trần Anh T là đội phó Đội thuế Liên phường 3 Chi cục thuế Quận 5 do Phan Thị Diệu Chi làm Đội trưởng. Bị cáo biết việc đến hộ kinh doanh trực tiếp thu hộ tiền thuế là sai quy trình nhưng do Đội trưởng là bị cáo Chi đồng thuận và bản thân bị cáo cũng có lợi ích vật chất từ việc các hộ kinh doanh gửi thêm tiền bồi dưỡng ngoài tiền đóng thuế nên vẫn thực hiện. Ngoài tiền bồi dưỡng bị cáo còn nhận tiền hối lộ từ một số hộ kinh doanh trong địa bàn quản lý của mình, theo yêu cầu của Chi, đem về đưa cho Chi để được giúp đỡ xem xét tăng mức thuế khoán thấp năm 2019. Mức tiền bồi dưỡng do Chi yêu cầu, bị cáo trực tiếp báo lại các hộ kinh doanh và thu tiền. Nếu các hộ kinh doanh không đưa tiền bồi dưỡng sẽ bị áp mức thuế khoán cao. Theo chỉ đạo của Chi, bị cáo phải đặt vấn đề với khoảng 16 hộ kinh doanh phải đưa tiền hối lộ nhưng bị cáo chỉ làm việc với 09 hộ và thu được số tiền 61.000.000 đồng đem về đưa cho Chi tại Chi cục thuế Quận 5, Chi chia đôi đưa lại cho bị cáo một nửa là 30.500.000 đồng.

Các hộ kinh doanh phải đưa tiền theo gợi ý của bị cáo gồm có: Phan Châu Toàn đưa 4.000.000 đồng, Trần Lê Kiều Bích (cùng em: Trần Lê Bích Thảo) đưa 10.000.000 đồng, Lâm Kiết Vân đưa 5.000.000 đồng, Lại Nghiệp Hữu đưa 10.000.000 đồng, Châu Thế Vinh (cùng chủ hộ Vương Kiến Minh) đưa 5.000.000 đồng, Đặng Thị Dung (cùng chồng: Lê Văn Ty) đưa 5.000.000 đồng, Lục Mỹ Thế đưa 10.000.000 đồng, Phan Thị Ánh Nguyệt đưa 10.000.000 đồng. Ngoài ra, có hộ Châu Thị Hối (cùng chị Châu Thị Phan) cho rằng tự nguyện bồi dưỡng 2.000.000 đồng nhưng bị cáo tự hiểu nhầm là tiền hối lộ nên báo lại và ăn chia với Chi.

Theo kết luận giám định số 481/KLGĐ-TT ngày 25/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chữ viết trên 02 danh sách là chữ viết của Trần Anh T viết ra. Qua làm việc với những người có tên trong danh sách này có 07 trường hợp chủ động tố cáo bị Tuấn và Chi ép buộc phải chung tiền để được giúp đỡ trong việc xét áp mức thuế khoán 2019 phù hợp với số tiền thể hiện trên danh sách; 01 trường hợp trực tiếp đưa tiền cho Chi và Chi đưa lại cho Tuấn; có 01 trường hợp khai nhận đã đưa tiền cho Tuấn (phù hợp số tiền thể hiện ở danh sách) nhưng cho rằng do tự nguyện bồi dưỡng, không bị ép buộc.

Như vậy tổng số tiền bị cáo Tuấn thông đồng với Phan Thị Diệu Chi nhận hối lộ là 61.000.000 đồng. Chi thực nhận 30.500.000 đồng, bị cáo Tuấn thực nhận 30.500.000 đồng.

Bị cáo Trần Anh T đã có hành vi lợi dụng nhiệm vụ quyền hạn, trực tiếp nhiều lần nhận tiền của các hộ kinh doanh, với số tiền mỗi lần từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để giảm mức thuế hàng năm mà các hộ này phải nộp, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Nhận hối lộ” theo quy định tại đ khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan mà bị cáo là người có chức vụ khi thi hành nhiệm vụ, gây ảnh hưởng xấu đến công tác thu ngân sách, làm mất niềm tin của nhân dân vào cơ quan Nhà nước.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cũng như áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s đ i ể m x khoản 1, k h o ả n 2 Điều 51 và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, ngoài ra cũng xem xét tình trạng bị cáo hiện bị nhiều bệnh tật, tuyên phạt bị cáo mức án 06 năm tù, là đã dưới mức mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định.

Xét ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy các tình tiết giảm nhẹ luật sư đề nghị áp dụng thêm đối với bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm mặc dù bị cáo cung cấp thêm được tình tiết mới đó là bị cáo đã nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 đồng mà bản án sơ thẩm đã tuyên, nhưng chưa đủ để xem xét giảm thêm hình phạt cho bị cáo.

Vì vậy không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Anh T, cũng như đề nghị của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Anh T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm:

- Căn cứ Điểm đ khoản 2, khoản 5 Điều 354; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Anh T 06 (sáu) năm tù về tội: “Nhận hối lộ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

[2] Bị cáo Trần Anh T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

867
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 298/2020/HS-PT ngày 18/06/2020 về tội nhận hối lộ

Số hiệu:298/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về