Bản án 298/2017/HS-ST ngày 16/11/2017 về tội hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 298/2017/HS-ST NGÀY 16/11/2017 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 317/2017/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 308/2017/HSST-QĐ ngày 06 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Lưu Văn H, sinh năm 1979 tại tỉnh Thái Bình; thường trú: 28/6/1A khu phố 3, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lưu Văn T, sinh năm 1954 và bà Vũ Thị H, sinh năm 1952; vợ Trần Thanh Nga N, sinh năm 1979; có 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/8/2017, ngày 16/8/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Phạm Xuân T, sinh năm 1987; thường trú: 270 khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Dương Khắc C; sinh năm 1997; thường trú: Thôn 3, xã C, huyện C, tỉnh T; chỗ ở: Nhà trọ cô Út, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

2. Anh Mai Hoàng M; sinh năm 1987; thường trú: ấp H; xã H, huyện P, tỉnh A; chỗ ở: Nhà trọ C, khu phố C, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lưu Văn H có quen biết với Phạm Xuân T, do mâu thuẫn trong việc kinh doanh nên cả hai không còn qua lại với nhau. Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 01/8/2017, H điều khiển xe mô tô biển số 59X2 - 930.78 đến cửa hàng vật liệu xây dựng M thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy T từ trong cửa hàng vật liệu xây dựng đi ra ngoài. Thấy vậy, H xông vào dùng tay và chân đánh T nhưng được mọi người can ngăn. Sau đó, Huy bỏ về được khoảng 200 mét thì quay lại cầm trên tay 01 cục đá bê tông kích thức khoảng 3x5cm, khi còn cách xe ôtô khoảng 20m, H ném thẳng cục đá bê tông vào bên phải kính chắn gió phía trước xe ô tô biển số 60A - 290.82 của anh Phạm Xuân T đang dựng ở cửa hàng vật liệu xây dựng M làm bể kính rồi bỏ chạy thoát. Cùng ngày anh Phạm Xuân T đến Công an phường Tân Đông Hiệp trình báo về hành vi hủy hoại tài sản của Lưu Văn H. Ngày 07/8/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An ra Lệnh bắt khẩn cấp đối với Lưu Văn H về hành vi Hủy hoại tài sản.

Theo kết luận định giá số 198/BB.ĐG ngày 15/8/2017 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: Tài sản bị hủy hoại là kính chắn gió phía trước của xe ô tô hiệu BMW - 320i, biển số 60A - 290.82 có trị giá 18.000.000 đồng.

Đối với 01 cục đá bê tông kích thước khoảng 3x5cm do Lưu Văn H sử dụng vào việc phạm tội, hiện không thu hồi được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An không đề cập xử lý.

Về phần dân sự: Bị cáo Lưu Văn H đã bồi thường thiệt hại cho anh Phạm Xuân T số tiền 20.000.000 đồng, anh T không có yêu cầu bồi thường gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Tại cáo trạng số 306/QĐ - KSĐT ngày 20 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lưu Văn H về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 143; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 07 tháng đến 10 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người bị hại, cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Lưu Văn H đã thực hiện hành vi dùng cục đá bê tông ném vào tấm kính chắn gió phía trước xe ôtô BMW 320i – biển số 60A -290.82 của người bị hại Phạm Xuân T làm tấm kính bị vỡ, trị giá tấm kính chắn gió là 18.000.000đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật Hình sự thì “Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo hủy hoại tài sản của người bị hại có trị giá 18.000.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội hủy hoại tài sản. Cáo trạng số 306/QĐ - KSĐT ngày 20 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi hủy hoại tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã bồi thường cho người bị hại; người bị hại có đơn bãi nại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, p khoản 1, khoản
2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nghề nghiệp ổn định, nhất thời phạm tội, có nhân thân tốt
thể hiện chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lưu Văn H đã bồi thường cho anh Phạm Xuân T 20.000.000đồng, anh Trường không có yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng không đặt ra xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt là phù hợp. Tuy nhiên, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù là chưa phù hợp, bởi lẽ xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, trong thời gian bị cáo được tại ngoại luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước và địa phương. Vì vậy, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian cũng không ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thị xã Dĩ An. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, Hội đồng xét xử còn áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “người bị hại có đơn bãi nại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo” được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 1, 2 điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lưu Văn H phạm Tội hủy hoại tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 143; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lưu Văn H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người đang chấp hành thời gian thử thách thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lưu Văn H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyên khang cao trong han 15 (mười lăm) ngày, kê tư ngay tuyên an . Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 298/2017/HS-ST ngày 16/11/2017 về tội hủy hoại tài sản

Số hiệu:298/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về