Bản án 296/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 296/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 754/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 570/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Bạch Ngọc T, sinh năm 1983 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp KT1, xã K T, huyện CM, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Bà Đinh Quỳnh N, sinh năm 1991 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp KT1, xã K T, huyện CM, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn bà ông Bạch Ngọc T trình bày: Ông và bà Đinh Quỳnh N cưới nhau vào năm 2011 có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kiến Thành, hôn nhân do mai mối và được cha mẹ quyết định. Vợ chồng sống hạnh phúc được đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng ly thân cho đến nay cũng không tới lui thăm nhau. Thấy tình cảm không còn ông yêu cầu ly hôn với bà Đinh Quỳnh N. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Bạch Ngọc T, sinh ngày 28/9/2011 hiện nay đang sống với ông. Sau khi ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu vợ cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản chung: Không có. Về quan hệ nợ chung: Không có.

Bị đơn bà Đinh Quỳnh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà Như vắng mặt không rõ lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của bà Như về nội dung đơn khởi kiện của ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Ông Bạch Ngọc T yêu cầu ly hôn với bà Đinh Quỳnh N. Bà Như có nơi cư trú tại ấp Kiến Thuận 1, xã Kiến Thành, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn bà Đinh Quỳnh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Đinh Quỳnh N.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Bạch Ngọc T và bà Đinh Quỳnh N xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau vào năm 2011 có đăng ký kết hôn kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ông, bà chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo ông T trình bày vợ chồng mâu thuẫn là do nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng ly thân cho đến nay cũng không tới lui thăm nhau. Ông T xác định tình cảm quan hệ vợ chồng không còn nên ông yêu cầu ly hôn. Bà Đinh Quỳnh N đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc ông T khởi kiện yêu cầu ly hôn và thông báo đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà không có ý kiến về việc khởi kiện của ông T và vắng mặt không lý do. Điều này thể hiện vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của ông Bạch Ngọc T là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét chấp nhận.

[4] Về quan hệ con chung: Ông T xác định vợ chồng có 01 con chung tên Bạch Ngọc T - Sinh ngày 28/9/2011 và hiện nay đang sống với ông T. Sau khi ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu bà Như cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ lúc vợ chồng ly thân đến nay ông T là người trực tiếp nuôi con chung nên tình cảm, tâm tư gắn liền với người nuôi dưỡng. Hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến của con chung. Qua ghi nhận ý kiến cháu Bạch Ngọc T có nguyện vọng muốn tiếp tục sống với cha. Do đó cần để ông Bạch Ngọc T tiếp tục nuôi cháu Bạch Ngọc T là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình cũng như nguyện vọng của con.

Do ông Bạch Ngọc T không yêu cầu bà Đinh Quỳnh N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ông Bạch Ngọc T trình bày không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về quan hệ nợ chung: ghi nhận ý kiến của ông Bạch Ngọc T trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Ông Bạch Ngọc T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 227, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 51, 56 và Điều 57, Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bạch Ngọc T.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Bạch Ngọc T được ly hôn với bà Đinh Quỳnh N. Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã KT, huyện CM, tỉnh An Giang cấp ngày 14/6/2011 không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Ông Bạch Ngọc T được tiếp tục nuôi con chung tên Bạch Ngọc T, sinh ngày 28/9/2011, bà Đinh Quỳnh N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Bạch Ngọc T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Đinh Quỳnh N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: Ghi nhận ông Bạch Ngọc T không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận ông Bạch Ngọc T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của ông, bà trong thời kỳ hôn nhân thì ông Bạch Ngọc T và bà Đinh Quỳnh N vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Ông Bạch Ngọc T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0013500 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 27 tháng 8 năm 2019. Ông T đã nộp xong.

Ông Bạch Ngọc T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bà Đinh Quỳnh N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 296/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:296/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về