Bản án 296/2017/HSST ngày 13/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 296/2017/HSST NGÀY 13/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa công khai ngày 13/9/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 295/2017/HSST, ngày 25/8/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình T, sinh năm 1971

ĐKNKTT: 4/52 D H, phường Q T, thành phố N Đ, tỉnh N Đ.

Nghề nghiệp: tự do            Văn hóa: 9/12

Con ông:  Nguyễn Đức T  (đã chết) Con bà:  Trần Thị N, sinh năm 1946

Gia đình có 04 anh chị em. Bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1974 (đã ly hôn).

Có 02 con sinh năm 1992 và năm 1995. Tiền án: không.

Tiền sự: Ngày 13/6/2017 Công an phường Nguyễn Du, thành phố Nam

Định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 13/6/2017 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h ngày 13/6/2017, tổ công tác Công an phường Bà Triệu, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 451 đường Giải Phóng, phường Trường Thi, thành phố Nam Định phát hiện Nguyễn Đình T đi xe đạp một mình có biểu hiện nghi vấn, tiến hành kiểm tra thu giữ trong lòng bàn tay trái của T 01 gói giấy nhỏ màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là heroine vừa mua) và tạm giữ của T 01 xe đạp màu đen đã cũ, 01 điện thoại di động màu vàng đã cũ, 01 sim điện thoại Mobi4U và 374.000 đồng. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng và đưa Thành về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Cơ quan CSĐT - CATP Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Nguyễn Đình T.

Ngày 16/6/2017 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định có bản kết luận giám định số 509/GĐKTHS kết luận: vật chứng thu giữ của Nguyễn Đình T là chất ma túy, loại chất ma túy: heroine, trọng lượng (khối lượng) mẫu: 0,112 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đình T đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: khoảng 17h30’ ngày 13/6/2017 T đi xe đạp từ nhà đến một ngõ nhỏ ở khu vực đường Phan Bội Châu, phường Trần Đăng Ninh, thành phố Nam Định mua của một nam thanh niên (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng cầm trong tay trái đi tìm nơi sử dụng. Khi quay về thì bị phát hiện bắt giữ.

Cáo trạng số 303/QĐ-KSĐT, ngày 23/8/2017 Viện kiểm sát (VKS) nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự (BLHS)

Tại phiên tòa đại diện VKS giữ nguyên nội dung quyết truy tố,  đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX)

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 41/2017/QH14.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 21 đến 24 tháng tù. Miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

Đề nghị HĐXX áp dụng điều 41 BLHS và điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) xử lý số vật chứng đã thu giữ.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, sau khi nghe bị cáo khai báo, nghe ý kiến của VKS.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 509/GĐKTHS ngày 16/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định cùng toàn bộ các tài liệu khác có trong hồ sơ đã có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 18h ngày 13/6/2017 Nguyễn Đình T đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói heroine có trọng lượng 0,112 gam tại trước cửa số nhà 451 đường Giải Phóng, phường Trường Thi, thành phố Nam Định thì bị bắt giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại CQĐT cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo HĐXX áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Khi  quyết  định  hình  phạt  đối  với  bị  cáo,  căn  cứ  Nghị  quyết  số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội để áp dụng tất cả những tình tiết có lợi cho các bị cáo.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. HĐXX quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân không nhằm kiếm lời bất chính nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: số Heroin đã thu giữ là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy, một sim điện thoại Mobi4u đã qua sử dụng, một điện thoại di động màu vàng đã cũ và số tiền 374.000đ là tài sản riêng không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Đình T tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Chiếc xe đạp thu giữ của Nguyễn Đình T là tài sản của chị Nguyễn Thị Hà nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trả lại cho chủ sở hữu.

[6] Án phí HSST: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều  99  BLTTHS và  Điều  23  Nghị  quyết  số  326/2016  UBTVQH14  ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng  khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2017.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu hủy số Heroin đã thu giữ có trong phong bì niêm phong số 509/GĐKTHS, trả lại cho bị cáo một sim điện thoại Mobi4u đã qua sử dụng, một điện thoại di động màu vàng đã cũ và số tiền 374.000đ (ba trăm bảy mươi bốn nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2017)

3. Án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Đình T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: 

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 296/2017/HSST ngày 13/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:296/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về