Bản án 295/2019/HS-ST ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 295/2019/HS-ST NGÀY 05/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 153/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định hoãn phiên tòa số 402/2019/QĐ-HPT ngày 19 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn P, sinh năm 1991 tại Sóc Trăng.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp An Hưng, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở hiện nay: khu phố 7, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Đảng viên: Không, trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không; con ông Trần Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giữ ngày 01/12/2018 đến ngày 10/12/2018 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn P là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 21 giờ ngày 30/11/2018 Phương đến khu vực công viên khu chung cư An Bình thuộc khu phố 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua của một đối tượng tên P1 (không rõ lai lịch) 03 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng). Sau đó, P mang 03 gói ma túy đến phòng số 5 nhà nghỉ Ánh Hưng địa chỉ 17/A10, khu dân cư An Bình, khu phố 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cất giấu vào trong vỏ bao thuốc là Zet để trong tủ lạnh.

Khoảng 00 giờ 00 ngày 01/12/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B phát hiện bắt quả tang đối với hành vi của P.

Vật chứng vụ án:

- 03 (ba) gói nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng (P khai là ma túy tổng hợp – hàng đá), ký hiệu M;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao 0963.462.494 của P và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao 0933.540.564 của Nguyễn Văn T (bạn của P) không liên quan đến hành vi phạm tội Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho P và T.

Tại bản kết luận giám định số 27/PC54-GĐMT ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận như sau:

Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4733 gam loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 159/CT/VKSBH-HS ngày 27/3/2019 của Viện kiểm Sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Trần Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn P mức án từ 14 tháng đến 20 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn P đã khai nhận vào khoảng 00 giờ 00 phút ngày 01/12/2018 khi bị cáo đang cất giấu 03 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) trong người tại nhà nghỉ Ánh Hưng địa chỉ 17/A10, khu dân cư An Bình, khu phố 1, phường A, thành phố B thì bị Đội Cảnh sát điều tra tôi phạm về ma túy Công an thành phố B bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 27/PC54-GĐMT ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4733 gam loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn P đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; nhà nước quản lý độc quyền và các chất ma túy, bản thân bị cáo cũng là đối tượng nghiện ma túy ý thức được tác hại nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội; hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tệ nạn xã hội khác. Ngoài ra, khi Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đưa vụ án ra xét xử nhiều lần (03 lần) bị cáo P vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc xét xử làm vụ án kéo dài thể hiện bị cáo xem thường pháp luật. Do vậy, đối với bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo là không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

Đối với người thanh niên tên P1 (không rõ nhân thân, lai lịch) đã bán ma túy cho P, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao 0963.462.494 của Pvà 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao 0933.540.564 của Nguyễn Văn T (bạn của P) không liên quan đến hành vi phạm tội Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho P và T. Do đó không đặt ra xem xét.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 27 ngày 10/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai).

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn P 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại giam thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 01/12/2018 đến ngày 10/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 27 ngày 10/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Văn P phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 295/2019/HS-ST ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:295/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:05/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về