TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 294/2020/HSST NGÀY 14/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 7 năm 2020; tại: Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 291/2020/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 436/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Đỗ Văn B; Sinh ngày: 15 tháng 8 năm 1956 tại huyện K, tỉnh T; Nơi cư trú: Khối 1, phường H, thành phố V, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Đức A (chết) và bà: Ngô Thị C, Sinh năm: 1924; Có vợ: Trần Thị H, Sinh năm: 1955; Và có 4 con: lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:
- Ngày 21/10/1997, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán, vận chuyển và tàng trữ chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 30/4/2000.
- Ngày 04/02/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 09/3/2007.
- Bản án số 05/2016/HSST ngày 11/01/2006 của bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 01/10/2017.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/5/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức T; Sinh năm: 1990; Địa chỉ: Xóm 22, xã N, thành phố V, tỉnh NA. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 10 giờ 45 phút ngày 25/5/2020, tại khu vực đồng Cánh Phượng thuộc xóm 9, xã N, thành phố V, tỉnh NA; Đỗ Văn B đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,250 gam ma túy (Heroine) để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Nghi Phú phát hiện bắt quả tang.
Tại Biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 25/5/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh và Kết luận giám định số 707/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 29/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Hai mẫu chất cục bột màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Đỗ Văn B gửi tới giám định đều là ma túy (Heroine). Số chất cục bột màu trắng (02 gói) thu giữ của Đỗ Văn B có tổng khối lượng 0,250 gam”.
Tại Bản cáo trạng số 331/CT-VKS-TPV ngày 19/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Đỗ Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Văn B khai nhận như sau: Vào khoảng 10 giờ ngày 25/5/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đỗ Văn B đi đến khu vực Trường V thuộc xóm 15, xã N, thành phố V tìm mua ma túy để về sử dụng. Tại đây, Đỗ Văn B gặp một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng. H đồng ý bán nên B đưa cho H 300.000 đồng. H cầm tiền và hẹn B 15 phút sau quay lại lấy ma túy. Sau khi quay lại, H đưa cho B 01 gói thuốc lá hiệu Vinataba bên trong có chứa 01 gói Heroine. Sau khi mua được ma túy, B đi về nhà chia gói ma túy ra thành hai gói nhỏ để sử dụng dần. Một gói B bỏ vào túi quần đùi bên trái B đang mặc; một gói B bỏ vào vỏ bao thuốc lá Vinataba rồi cầm ở tay. Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, B đi bộ ra khu vực đồng Cánh Phượng thuộc xóm 9, xã N, thành phố V tìm nơi để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Nghi Phú kiểm tra, thu giữ trên tay trái của B 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba bên trong có gói giấy thiếc màu vàng chứa các cục chất rắn màu trắng; thu giữ trong túi quần đùi bên trái mà B đang mặc 01 gói giấy thiếc màu vàng chứa các cục chất rắn màu trắng. Cả hai gói giấy thiếc màu vàng bên trong chứa các cục chất rắn màu trắng bị thu giữ đều là ma túy (Heroine) có khối lượng đúng như Kết luận giám định đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như tại Bản cáo trạng số 331/CT- VKS-TPV ngày 19/6/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn B từ 12 đến 15 tháng tù.
Ngoài ra, còn đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và xử lý vật chứng là: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015, Điều 47 BLHS 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định là 0,05 gam Heroine thu giữ của Đỗ Văn B.
Và tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Căn cứ vào: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, lời khai của người làm chứng anh Nguyễn Đức T (BL 62 – 64); Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi cất giấu trái phép 02 gói ma túy có tổng khối lượng là 0,250 gam (Heroine) để sử dụng của Đỗ Văn B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết.
[2.2]. Đây là vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện như heroine, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy đối với trí lực, thể lực của người sử dụng, biết rõ ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm bị nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển... trái phép nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bị cáo vẫn tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Xét về nhân thân, Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt nhiều lần cũng về tội phạm ma túy nhưng không chịu lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; lượng ma túy bị cáo tàng trữ là rất ít; trong gia đình bị cáo có bố đẻ Đỗ Đức A được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Ba do có công trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; bản thân bị cáo là người cao tuổi nên cần áp dụng điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đ đến 500.000.000 đồng nhưng xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định; lại là người nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên miễn cho bị cáo.
[2.4]. Trong vụ án này, theo lời khai của B thì có người đàn ông tên H đã bán trái phép ma túy cho B nhưng do B không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy, khi nào xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau.
[2.5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ tại Đỗ Văn B, sau khi lấy đi giám định còn lại là 0,05 gam Heroine là đối tượng phạm tội cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Điều 47 Bộ luật Hình sự.
[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố Bị cáo Đỗ Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
*. Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt Bị cáo Đỗ Văn B: 13 (Mười ba) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 25/5/2020.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong, trong có chứa 0,05 gam Heroine thu giữ tại Đỗ Văn B (một mặt của phong bì có ghi Vật chứng thu giữ của Đỗ Văn B”).
(Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK 0361 ngày 29/6/2020).
*. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Văn B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 294/2020/HSST ngày 14/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 294/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về