Bản án 294/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 294/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 971/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 356/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thảo T, sinh năm 1993 (có mặt) Địa chỉ: Số 78/14 X, phường Đ, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Anh Trần Khánh L, sinh năm 1991. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã G, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 11 tháng 9 năm 2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thảo T trình bày: Chị và anh Trần Khánh L chung sống với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G vào năm 2017. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do cuộc sống vợ chồng không phù hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Chị và anh L đã ly thân từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay, từ khi ly thân đến nay anh chị cũng không thể hàn gắn, đoàn tụ. Nay, chị yêu cầu ly hôn với anh Trần Khánh L.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh L có 01 con chung tên Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 18/9/2017. Từ khi ly thân đến nay, con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Khánh L trình bày tại Bản tự khai: Chị T xin ly hôn, anh đồng ý. Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 18/9/2017, khi ly hôn, anh đồng ý để chị T tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.

Ngày 25/9/2019, anh L có đơn đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Sau khi thụ lý vụ án, chị Nguyễn Thảo T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống Đ thông báo thụ lý vụ án cho anh Trần Khánh L, anh L có bản tự khai phản hồi ý kiến và có yêu cầu được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp công khai chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thảo T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trần Khánh L, anh L hiện thường trú tại ấp B, xã G, huyện Đ, tỉnh Long An và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh L chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G vào năm 2017 nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, chị T và anh L phát sinh mâu thuẫn nên sống ly thân từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu ly hôn. Tại bản tự khai anh L cũng đồng ý ly hôn.

Xét thấy, chị T và anh L đều trình bày tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn và đồng ý ly hôn nhưng Tòa án không tiến hành hòa giải được do chị T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, anh L có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh L là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Chị T và anh L thống nhất có một con chung tên Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 18/9/2017, con đang sống với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung. Anh L có lời trình bày đồng ý để chị T tiếp tục nuôi con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, sự thỏa thuận về con chung và cấp dưỡng của chị T và anh L là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81, Điều 110, 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về tài sản chung: Chị T và anh L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét [6]. Về nợ chung: Chị T và anh L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84, 110, 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thảo T đối với anh Trần Khánh L về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thảo T được ly hôn với anh Trần Khánh L.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thảo T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng 01 con chung tên Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 18/9/2017, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị T không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thảo T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003604 ngày 11/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 294/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:294/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về