TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NĐ, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 294/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 171/2018/TLST-HNGĐ ngày 02-5-2018 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15-6-2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị H, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Xóm MT I, thôn PL, xã NP, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Xóm MT I, thôn PL, xã NP, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.
(Chị H và anh T có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 24-4-2018, bản tự khai ngày 08-5-2018, các biên bản hòa giải ngày và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Đoàn Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 2000 và đăng ký kết hôn ngày 03-9-2001 tại Ủy ban nhân dân xã NP, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống bình thường đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách quan điểm sống không hòa hợp, anh T không chung thủy, không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không tôn trọng nhau, mất niềm tin ở nhau và thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Nay, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh T.
Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn TA, sinh ngày 01-11-2001 và Nguyễn Thị H, sinh ngày 26-01-2004. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con. Về cấp dưỡng nuôi con, chị và anh T tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản và công nợ chung: Chị và anh T tự thỏa thuận với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 08-5-2018, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đoàn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 2000 và đăng ký kết hôn ngày 03-9-2001 tại Ủy ban nhân dân xã NP, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Quá trình chung sống của vợ chồng anh đôi lúc có xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do tính cách của vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng không tôn trọng nhau, mất niềm tin ở nhau và đã có lần sống ly thân. Tuy nhiên, anh không đồng ý ly hôn và mong muốn vợ chồng về đoàn tụ với nhau để cùng nhau nuôi dạy con chung, vì các con của anh chị còn nhỏ và rất cần sự giáo dục của cả bố và mẹ.
Về con chung: Anh xác nhận vợ chồng có hai con chung là Nguyễn TA, sinh ngày 01-11-2001 và Nguyễn Thị H, sinh ngày 26-01-2004. Nếu vợ chồng ly hôn, anh tôn trọng nguyện vọng của các con về người trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, anh và chị H sẽ tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản và công nợ chung: Anh và chị H tự thỏa thuận với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 10-5-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ với chính quyền địa phương nơi chị H và anh T cư trú, chính quyền địa phương cung cấp như sau: Quá trình chung sống của chị H và anh T có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do quan điểm sống của hai vợ chồng không hòa hợp, không cùng nhau xây dựng H phúc gia đình. Vợ chồng anh chị có lần xảy ra va chạm, đánh chửi nhau. Nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng anh chị, nếu không được đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 14-5-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đối với hai cháu Nguyễn TA và Nguyễn Thị H (con đẻ của chị H và anh T), cháu TA và cháu H đều trình bày nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nhận xét đánh giá:
- Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.
- Về việc giải quyết vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử ly hôn giữa chị Đoàn Thị H và anh Nguyễn Văn T.
+ Về con chung: Giao hai cháu Nguyễn TA và Nguyễn Thị H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H và anh T về việc tự thỏa thuận với nhau về cấp dưỡng nuôi con chung.
+ Về tài sản và công nợ chung: Chị H và anh T tự thỏa thuận với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đoàn Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện năm 2000 và đăng ký kết hôn ngày 03-9-2001 tại Ủy ban nhân dân xã NP, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống của chị H và anh T có xảy ra mâu thuẫn. Theo chị H, nguyên nhân là do anh T không có trách nhiệm với gia đình, không chung thủy nên dẫn đến vợ chồng không tôn trọng nhau, mất niềm tin ở nhau. Anh T cũng xác nhận vợ chồng có mâu thuẫn, có xảy ra đánh chửi nhau nhưng vì con chung nên anh T muốn vợ chồng đoàn tụ. Chính quyền địa phương nơi vợ chồng anh chị sinh sống cũng xác nhận vợ chồng anh chị có mâu thuẫn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần hòa giải nhưng chị H vẫn kiên quyết giữ yêu cầu ly hôn, anh T có nguyện vọng đoàn tụ vì con chung nhưng chưa có biện pháp khắc phục mâu thuẫn. Xét tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần được chấp nhận.
[2] Về con chung: Vợ chồng chị H và anh T có hai con chung là Nguyễn TA, sinh ngày 01-11-2001 và Nguyễn Thị H, sinh ngày 26-01-2004. Anh T tôn trọng nguyện vọng của các con về người trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung và cũng phù hợp với nguyện vọng của hai con chung. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của chị H và giao hai cháu Nguyễn TA và Nguyễn Thị H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh T đều có đề nghị tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[3] Về tài sản và công nợ chung: Chị H và anh T tự thỏa thuận với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này, nếu xảy ra tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[4] Về án phí: Chị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử ly hôn giữa chị Đoàn Thị H và anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: Giao chị Đoàn Thị H trực tiếp nuôi hai con chung là Nguyễn TA, sinh ngày 01-11-2001 và Nguyễn Thị H, sinh ngày 26-01-2004.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H và anh T tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị Đoàn Thị H và anh Nguyễn Văn T vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom. Người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về án phí: Chị Đoàn Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0001308 ngày 02-5-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ.
4. Quyền kháng cáo: Chị Đoàn Thị H và anh Nguyễn Văn T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 294/2018/HNGĐ-ST ngày 29/06/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 294/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về