Bản án 292/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM-TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 292/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 282/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2020/HSST-QĐ ngày 30/11/2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1984, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp H, xã N, huyện B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quang K và bà Nguyễn Thị T ; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Phương A , có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2008 và con nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/5/2020 đến ngày 03/6/2020 được tại ngoại điều tra. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

2. Nguyễn Thiện N, sinh năm 1986 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp H, xã N, huyện B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Bùi Thị H; Bị cáo có vợ là Nguyễn Phương Ngọc H, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2010 và con nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền án: Ngày 24/7/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/5/2020 đến ngày 03/6/2020 được tại ngoại điều tra. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

3. Vũ Văn Q, sinh năm 1990, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp H, xã N, huyện B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn Q và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/5/2020 đến ngày 03/6/2020 được tại ngoại điều tra. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

4. Ngô Thị H, sinh năm 1966, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 10/36, khu phố 5, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị T (đã chết); Có chồng tên Lê Đình T, có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1983, con nhỏ nhất sinh năm 1993.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/5/2020 đến ngày 03/6/2020 được tại ngoại điều tra. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt) 5. Trần Thị H, sinh năm 1956, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 108/4 khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn L (đã chết) và bà Vũ Thị M (đã chết); Có chồng tên Nguyễn Đức H, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 1989.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 14/3/2002, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 31/5/2020 đến ngày 03/6/2020 được tại ngoại điều tra. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

6. Trần Thị Nhã H, sinh năm 1989, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 108/4 khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức H và bà Trần Thị H. Bị cáo có chồng là Phạm Bá T, có 01 con sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

7. Trần Thị Thùy T, sinh năm 1992, tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: 61/5, khu phố 2, phường S, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Ngọc L và bà Phạm Thị Thanh X. Có chồng là Nguyễn Anh T (đã ly hôn). Có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2018 và hiện đang mang thai được 27 tuần.

Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

8. Nguyễn Thị Thùy P, sinh năm 1990, tại Lâm Đồng.

Nơi cư trú: 126A/1, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn P và bà Lê Thị B (đã chết). Sống chung như vợ chồng với anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1989 (chưa đăng ký kết hôn). Có 01 con sinh năm 2019 Tiền án, tiền sự: Không.

- Ngày 28/8/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xử phạt 02 năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 năm kể từ ngày tuyên án về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 30/5/2020 tại ấp H, xã N, huyện B, tỉnh Đồng Nai, Công an xã Hố Nai 3 bắt quả tang các đối tượng Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Thiện N, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T, Nguyễn Thị Thùy P và một số đối tượng đã bỏ chạy, đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức “xóc đĩa” ăn tiền, thu giữ 01 bộ dụng cụ đánh “xóc đĩa” gồm: 01 chén nhựa, 01 đĩa bằng sứ, 04 “con vị” hình tròn (cắt từ bộ bài tây 52 lá), 01 tấm bao bì kích thước 70cm x 112cm; tạm giữ trong người các đối tượng 7.160.000 đồng và 07 điện thoại di động các loại.

Các đối tượng khai nhận hành vi đánh bạc như sau: sử dụng 01 bộ dụng cụ đánh “xóc đĩa” gồm: 01 chén nhựa, 01 đĩa bằng sứ, 04 “con vị” hình tròn (cắt từ bộ bài tây 52 lá) và 01 tấm bao bì kích thước 70cm x 112cm được kẻ chia làm 02 phần, một bên ghi lẻ và một bên ghi chẵn. Người cầm cái cho 04 “con vị” vào đĩa rồi úp chén lại và lắc, sau đó đặt xuống, các con bạc sẽ chọn bên chẵn hoặc lẻ để đặt số tiền cược (đặt bao nhiêu tiền thì sẽ ăn, thua số tiền tương ứng). Khi các con bạc đã đặt tiền xong thì người cầm cái sẽ mở chén, nếu cả 04 con vị cùng có mặt “sấp” hoặc cùng có mặt “ngữa”, hoặc 02 con vị cùng mặt “sấp”, 02 con vị cùng mặt “ngữa” thì người đặt bên chẵn sẽ thắng bạc, còn nếu có 3 con vị mặt “sấp”, 01 con vị mặt “ngữa”, hoặc có 03 con vị mặt “ngữa” 01con vị mặt “sấp” thì người đặt cược bên lẻ thắng bạc. Người cầm các sẽ lấy số tiền bên thua trả cho số tiền bên thắng, nếu số tiền bên thắng nhiều hơn bên thua thì người cấm cái phải lấy tiền của mình trả tiếp cho bên thắng, nếu số tiền bên thua nhiều hơn bên thắng thì người cầm cái sẽ được hưởng số tiền chênh lệch đó.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã điều tra, làm rõ hành vi phạm tội và số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc cụ thể như sau:

1. Bị cáo Nguyễn Quang Đ khai nhận: mang theo và sử dụng 300.000 đồng để đánh bạc, Đ là người cầm cái, Nguyễn Thiện Minh là người cảnh giới và thu tiền xâu. Khi bị bắt Đ đánh bạc thắng được 70.000 đồng, khi bị bắt tạm giữ của Đ số tiền 370.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia105.

2. Bị cáo Nguyễn Thiện N khai nhận: mang theo và sử dụng 3.500.000 đồng để đánh bạc, N lấy ra 220.000 đồng để đặt, mỗi ván N đặt từ 10.000 đồng đến 20.000 đồng, N đánh bạc thắng được 180.000 đồng, khi bị bắt tạm giữ của N số tiền 400.000 tại chiếu bạc, 3.280.000 đồng trong người và 01 điện thoại di động hiệu Nokia105.

3. Bị cáo Vũ Văn Q khai nhận: mang theo 200.000 đồng, sử dụng 100.000 để đánh bạc, mỗi ván Q đặt từ 50.000 đồng, Q đánh bạc thua 100.000 đồng, khi bị bắt tạm giữ của Q số tiền 100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia106.

4. Bị cáo Ngô Thị H khai nhận: mang theo và sử dụng 300.000 đồng để đánh bạc, mỗi ván H đặt từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng, H đánh bạc thua 300.000 đồng, Khi bị bắt tạm giữ của H 01 điện thoại di động hiệu Itel.

5. Bị cáo Trần Thị H khai nhận: mang theo và sử dụng 30.000 đồng để đánh bạc, mỗi ván H đặt từ 10.000 đồng, H đánh bạc thua 20.000 đồng, khi bị bắt tạm giữ của H số tiền 10.000 đồng.

6. Bị cáo Trần Thị Nhã H khai nhận: mang theo 2.700.000 đồng, sử dụng 200.000 để đánh bạc, mỗi ván H đặt từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng, H đánh bạc thắng 300.000 đồng, khi bị bắt Công an tạm giữ của H số tiền 3.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S.

7. Bị cáo Trần Thị Thùy T khai nhận: mang theo và sử dụng 250.000 để đánh bạc, mỗi ván T đặt từ 10.000 đồng đến 20.000 đồng, T đánh bạc thua 250.000 đồng, khi bị bắt tạm giữ của T 01 điện thoại di động hiệu Nokia105.

8. Bị cáo Nguyễn Thị Thùy P khai nhận: P đến song bạc để đòi tiền nợ của đối tượng tên V nhưng không được, P mượn của Trần Thị Nhã H 1.000.000 đồng, P cho Nguyễn Thiện Minh 500.000 đồng, còn 500.000 đồng P sử dụng để đánh bạc, mỗi ván P đặt từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng, P đánh bạc thua 500.000 đồng, khi bị bắt tạm giữ của P 01 điện thoại di động hiệu Nokia105.

Ngày 03/6/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Thiện N, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thùy P về tội “Đánh bạc” quy định tại điều 321 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải.

- Về vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng:

+ 07 điện thoại di động và số tiền 1.980.000 đồng các bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho các bị cáo theo quy định.

+ 01 chén nhựa, 01 đĩa bằng sứ, 04 “con vị” hình tròn (cắt từ bộ bài tây 52 lá) và 01 vỏ bao màu trắng kích thước 70cm x 112cm đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 5.180.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công.

Bản cáo trạng số: 291/CT/VKS-TB ngày 03/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Thiện N, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thùy P về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Đối với Nguyễn Thiện Minh, hiện không có mặt tại địa phương và đối tượng tên V (không rõ nhân thân, lai lịch) cơ quan điều tra chưa làm việc được, nên tách ra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Đ 06 (sáu) đến 08 (tám) tháng tù; Xử phạt bị cáo Vũ Văn Q từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù; Xử phạt bị cáo Trần Thị Nhã H từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù; Xử phạt bị cáo Ngô Thị H từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù; Xử phạt bị cáo Trần Thị Thùy T từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy P từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù. Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Thiện N từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù; Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thị H từ 04 (bốn) đến 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 chén nhựa, 01 đĩa bằng sứ, 04 “con vị” hình tròn (cắt từ bộ bài tây 52 lá) và 01 vỏ bao màu trắng kích thước 70cm x 112cm.

+ Đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công số tiền 5.180.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

Về án phí: Tuyên buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng của các bị cáo:

Bị cáo Đ: Không nói lời nói sau cùng.

Bị cáo P: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét bị cáo đi tù thì không có ai nuôi con của bị cáo.

Bị cáo H: Mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo cơ hội để sửa sai.

Bị cáo H: Bị cáo đã già, còn bị bệnh đau lưng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo H: Đây là lần bị cáo phạm tội lần đầu mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo T: Đây là lần bị cáo phạm tội đầu tiên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo Q: Bị cáo đã biết lỗi, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo N: Xin Hội đồng xét xử xem xét để bị cáo làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ ngày 30/5/2020 tại ấp H, xã N, huyện B, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Thiện N, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thùy P đã có hành vi đánh bạc ăn tiền bằng hình thức đánh “xóc đĩa” với tổng số tiền đánh bạc là 5.180.000 đồng (năm triệu một trăm tám mươi ngàn đồng).

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Thiện N, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thùy P đã phạm tội “Đánh bạc” quy định khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự, như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.

Hành vi của các bị cáo mang tính đồng phạm song ở mức độ giản đơn. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh, trật tự trị an. Các bị cáo là người đã trưởng thành bản thân ý thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Nên khi quyết định hình phạt, có xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Đối với bị cáo N là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Đ, Q, H, H, P, T, H không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Quá trình điều tra các bị cáo Đ, Q, H, T, P, H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự. Riêng bị cáo Nguyễn Thiện N và bị cáo Trần Thị H có 01 tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 07 điện thoại di động và số tiền 1.980.000 đồng các bị cáo không sử dụng vào mục đích đánh bạc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho các bị cáo là phù hợp.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chén nhựa, 01 đĩa bằng sứ, 04 “miếng giấy” hình tròn (cắt từ bộ bài tây 52 lá) và 01 tấm bao bì kích thước 70cm x 112cm.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 5.180.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Đ, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T, Nguyễn Thị Thùy P phạm tội “Đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Đ 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Q 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Ngô Thị H 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Trần Thị Nhã H 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Trần Thị Thùy T 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy P 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Trần Thị H phạm tội “Đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Trần Thị H 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thiện N phạm tội “Đánh bạc”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện N 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị áp giải để chấp hành án, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 31/5/2020 đến ngày 03/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chén nhựa, 01 đĩa bằng sứ, 04 “miếng giấy” hình tròn (cắt từ bộ bài tây 52 lá) và 01 vỏ bao màu trắng kích thước 70cm x 112cm. (Vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/12/2020) - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 5.180.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc (Số tiền trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên lai thu số 002755 ngày 14/12/2020)

3. Về án phí hình sự: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Thiện N, Vũ Văn Q, Ngô Thị H, Trần Thị H, Trần Thị Nhã H, Trần Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thùy P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 292/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:292/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về