TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 18 tháng 5 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2021 đối với:
Bị cáo: Họ và tên: Hà Thị L, Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 20 tháng 02 năm 1992 tại: Tân Sơn - Phú Thọ;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12 Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Khu Chiềng, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Con ông: Hà Văn H - Sinh năm: 1962; Con bà: Lê Thị Th - Đã chết; Chồng: Đinh Văn B - Sinh năm: 1985; Con: Đinh Thị Kiều T - Sinh năm: 2009 và Đinh Minh Th - Sinh năm: 2015; Hiện chồng và con đều ở tại: Khu Chiềng, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ;
- Tiền án: Bản án số 45/2019/HS-ST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt Hà Thị L 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Môi giới mại dâm”. Bị cáo đang trong thời gian thử thách lại tiếp tục phạm tội.
- Tiền sự: Không;
Bị cáo Hà Thị L bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 11/01/2021 đến ngày 20/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ chờ xử lý. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị H – SN 1981 Địa chỉ: Khu L, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ 1
2. Anh Nguyễn Văn H1 – Sinh năm 1990 Địa chỉ: Khu Gi, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
3. Anh Đinh Văn Q - Sinh năm 1990 Địa chỉ: Khu B, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ 4. Anh Đỗ Hải Đ - Sinh năm 2000 Địa chỉ: Khu Đồng Lão, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ 5. Ông Lê Hồng P – Sinh năm 1957 Địa chỉ: Phố Vàng, TT. Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
( Chị H có mặt; Anh H1, anh Q, anh Đ, ông P vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 10/01/2021, do có nhu cầu mua dâm nên Nguyễn Văn H1 (sinh năm: 1990, thường trú tại: khu Gi, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) đến nhà nghỉ Hải Nam thuộc: khu B, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ để đặt vấn đề mua dâm. Khi đến nhà nghỉ Hải Nam, H1 gặp bà Hà Thị Th (sinh năm: 1957, thường trú tại: xóm Rịa 2, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) là người quản lý nhà nghỉ. H1 hỏi bà Th có gái bán dâm không bố trí cho H1 01 người. Bà Th trả lời không có. Tuy nhiên, bà Th có số điện thoại của Hà Thị L (sinh năm: 1992, thường trú tại: khu Chiềng, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) là gái bán dâm. Trước đó, L cho bà Th số điện thoại và nhờ nếu có người hỏi mua dâm thì cho số điện thoại để gọi cho Lý. Bà Th cho H1 số điện thoại củ a L đồng thời cho H1 mượn điện thoại để gọi cho L (Do máy điện thoại của H1 hết pin). H1 tự liên lạc, thỏa thuận và đã mua dâm được với Hà Thị L vào ngày 10/01/2021 tại nhà nghỉ Hải Nam. Qua lần mua dâm này H1, biết L bán dâm với giá là 300.000đ/người/lượt.
Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 11/01/2021, H1 cùng với Đinh Văn Q (sinh năm: 1990, thường trú tại Khu B, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) rủ nhau đi mua dâm. Lúc này, H1 nhắn tin thỏa thuận mua bán dâm với L, đồng thời bảo L bố trí thêm 01 người bán dâm cho Quyền, L đồng ý. H1 hẹn L sẽ mua bán dâm với nhau tại nhà nghỉ Hải Nam. L đến nhà nghỉ Hải Nam trước đạt chờ H1 và Quyền đến. Khoảng 15 giờ cùng ngày, H1 và Quyền đến nhà nghỉ Hải Nam. Sau đó, L và H1 vào phòng 202 Quyền vào phòng 206 để chờ mua dâm. L gọi điện thoại từ số 0332571245 đến số 0964579106 của chị Nguyễn Thị H (sinh năm: 1981, thường trú tại Khu L, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) bảo Chị H đến bán dâm cho khách tại phòng 206 nhà nghỉ Hải Nam đồng thời thỏa thuận sẽ trả cho Chị H 300.000đ/người/01 lượt bán dâm. Chị H đồng ý rồi đến nhà nghỉ Hải Nam để bán dâm. Tại phòng 202, H1 đưa cho L số tiền 700.000đ, trong đó 300.000đ là tiền H1 mua dâm với L, 300.000đ là tiền mua dâm của Q với H, còn 100.000đ là tiền trả công cho L gọi người bán dâm cho Q. Khi L đang bán dâm cho H1 tại phòng 202, còn Chị H đang bán dâm cho Q tại phòng 206 thì bị Công an huyện Thanh Sơn phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: Tiền VNĐ: 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) thu giữ trên người Hà Thị L; 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu “Condom Hualei” đã bị xé rách và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu giữ tại phòng 202); 01 (Một) vỏ bao cao su nhãn hiệu Sankamura đã bị xé rách và 01 (một) bao cao su, đã qua sử dụng (thu giữ tại phòng 206); Tạm giữ của Hà Thị L: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F3 Plus, màu trắng, số IMEI 1: 863886032706812, IMEI 2: 863886032707804, lắp sim số 033.850.6022, đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số seri 1: 353119112802393, số seri 2: 35311917802398, lắp sim số 0332571245, đã qua sử dụng; Tạm giữ của Nguyễn Thị H: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 7, màu đen, số IMEI 1: 867807049762495, số IMEI 2: 867807049762502, lắp sim số:
0954679106, đã qua sử dụng, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, kiểm kiểm soát 19C1-297.83. Tạm giữ của Nguyễn Văn H1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng bạc lắp sim số: 0363849998, đã qua sử dụng.
Ngày 20/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Hà Thị L về tội “Môi giới mại dâm” quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự. Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn phê chuẩn.
Tại Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn, Hà Thị L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của L phù hợp với lời khai người liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đối với Hà Thị Th, quá trình điều tra đã làm rõ hành vi Chứa mại dâm của Hà Thị Th vào ngày 10/01/2021 tại nhà nghỉ Hải Nam. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã khởi tố vụ án Chứa mại dâm và khởi tố bị can đối với Hà Thị Th để xử lý theo quy định nên không đề cập trong vụ án này.
Ngày 11/01/2021, khi nhận khách là Anh H1, anh Q vào nhà nghỉ Hải Nam, bà Th đã kiểm tra giấy tờ tùy thân của khách theo quy định, việc mua bán dâm giữa Anh H1 với bị can L, anh Q với Chị H không liên lạc qua bà Th nên bà Th không biết. Do đó, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn không đề cập đến việc xử lý đối với bà Th về hành vi chứa mại dâm.
Đối với Nguyễn Văn H1 và Đinh Văn Q đã thực hiện hành vi mua dâm, đây là hành vi vi phạm hành chính, Cơ quan điều tra đã chuyển Công an huyện Thanh Sơn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 43, 44/QĐ- XPHC cùng ngày 19/03/2021, mức phạt mỗi người 500.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với Hà Thị L và Nguyễn Thị H đã thực hiện hành vi bán dâm ngày 11/01/2021, đây là hành vi vi phạm hành chính, Cơ quan điều tra đã chuyển Công an huyện Thanh Sơn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 41, 42/QĐ-XPHC cùng ngày 19/03/2021, mức phạt 100.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với ông Lê Hồng P (sinh năm 1957, trú tại: phố Vàng, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) là chủ nhà nghỉ Hải Nam. Ngày 24/3/2020, ông P thuê bà Hà Thị Th làm quản lý tại nhà nghỉ Hải Nam. Giữa ông P và bà Th đã làm hợp đồng lao động với nhau. Ngoài ra, ông P còn làm giấy ủy quyền cho bà Th được quyền quản lý và chịu trách nhiệm về mọi mặt liên quan đến cư trú tại nhà nghỉ Hải Nam. Việc bà Th để xảy ra hoạt động mại dâm tại nhà nghỉ Hải Nam vào ngày 10/01/2021 và ngày 11/01/2020 ông P hoàn toàn không biết nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn không đề nghị xử lý đối với ông P.
Đối với số tiền mua dâm 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) thu giữ trên người Hà Thị L trong quá trình bắt quả tang, đây là tài sản bất hợp pháp do phạm tội mà có hiện được nộp vào tài khoản của Cơ quan điều tra tại Kho bạc Nhà nước huyện Thanh Sơn, chờ xử lý; Đối với 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu “Condom Hualei” đã bị xé rách và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng (thu giữ tại phòng 202); 01 (Một) vỏ bao cao su nhãn hiệu Sankamura đã bị xé rách và 01 (một) bao cao su, đã qua sử dụng (thu giữ tại phòng 206); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F3 Plus, màu trắng, số IMEI 1: 863886032706812, IMEI 2: 863886032707804, lắp sim số 033.850.6022, đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số seri 1: 353119112802393, số seri 2: 35311917802398, lắp sim số 0332571245, đã qua sử dụng thu giữ của Hà Thị L; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 7, màu đen, số IMEI 1: 867807049762495, số IMEI 2: 867807049762502, lắp sim số: 0954679106, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị H, đây là vật chứng của vụ án. Toàn bộ đồ vật, tài sản nêu trên hiện đang được tạm giữ tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn chờ xử lý.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, kiểm kiểm soát 19C1-297.83, đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị H, không phải là vật chứng của vụ án. Ngày 30/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị H tiếp tục quản lý, sử dụng.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng bạc lắp sim số: 0363849998, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Văn H1, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Hải Đ (sinh năm: 2000, trú tại khu Đồng Lão, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ). Ngày 8/01/2021, anh Đ cho Anh H1 mượn điện thoại để liên lạc, không biết Anh H1 sử dụng điện thoại vào việc mua bán dâm. Ngày 30/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đỗ Hải Đ tiếp tục quản lý, sử dụng.
Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKSThS ngày 09 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn truy tố bị cáo Hà Thị L về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn không thay đổi, bổ sung cáo trạng, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 328, điểm s khoản 1Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Khoản 1 Điều 55; Khoản 2 Điều 56; Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Hà Thị L phạm tội "Môi giới mại dâm".
Xử phạt Hà Thị L từ 12 đến 15 tháng tù. Tổng hợp với 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 45/HS-ST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, buộc bị cáo Lý phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được khấu trừ 09 ngày tạm giữ (Từ ngày 11/01/2021 đến ngày 20/01/2021) của lần phạm tội này và khấu trừ 03 ngày tạm giữ (từ ngày 01 đến ngày 03/7/ 2019) của bản án số 45/HS-ST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Hà Thị L từ 10.000.000đ đến 20.000.000đ để sung quỹ Nhà nước.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Hà Thị L.
Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước của bị cáo Hà Thị L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F3 Plus, màu trắng đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen đã qua sử dụng.
Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei và 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Sankamura đã bị xé rách; 02 bao cao su đã qua sử dụng (thu giữ tại phòng 202 phòng 206 nhà nghỉ Hải Nam); 01 chiếc sim điện thoại số 033.850.6022, 01 chiếc sim điện thoại số 0332571245 thu giữ của Hà Thị L.
Trả lại cho chị Nguyễn Thị H: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 7, màu đen, số IMEI 1: 867807049762495, số IMEI 2: 867807049762502, lắp sim số 0954679106 đã qua sử dụng; Trả lại cho ông Lê Hồng P gồm: 01 hợp đồng lao động số 03 ngày 24/3/2020 được ký kết giữa ông Lê Hồng P và bà Hà Thị Th; 01 giấy ủy quyền ngày 24/3/2020 giữa người ủy quyền là ông Lê Hồng P và người nhận ủy quyền là bà Hà Thị Th; 01 giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; 01 biên bản kiểm tra điều kiện an toàn về Phòng cháy và chữa cháy.
Xác nhận ngày 30/01/2021 CQCSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, kiểm kiểm soát 19C1-297.83 và Trả lại cho anh Đỗ Hải Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng bạc lắp sim số: 0363849998, đã qua sử dụng.
Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố Tụng hình sự, bị cáo Hà Thị L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Hà Thị L nhất trí như ý kiến luận tội của kiểm sát viên không có lời bào chữa nào khác.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Đã thực hiện đúng thẩm quyền; đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều nhất trí và không ai có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Chứng cứ buộc tội:
Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đầy đủ cơ sở kết luận: Khoảng thời gian từ 15 giờ 00 phút đến 15 giờ 50 phút ngày 11/01/2021, tại Nhà nghỉ Hải Nam thuộc: khu B, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Hà Thị L (sinh năm: 1992, thường trú tại: khu Chiềng, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) đã có hành vi làm trung gian dụ dỗ, môi giới để Nguyễn Thị H (sinh năm: 1981, thường trú tại Khu L, xã Địch Quả, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) bán dâm cho Đinh Văn Q (sinh năm: 1990, thường trú tại Khu B, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) với giá 300.000đ/người/01 lượt bán dâm, nhằm mục đích thu lợi bất chính số tiền là 100.000 đồng.
Hành vi của bị cáo Hà Thị L đã phạm tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự quy định:
1. “Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[3] Xét tính chất vụ án:
Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và nếp sống văn minh trong đời sống xã hội. Vì vậy, đưa bị cáo ra xét xử và có hình phạt mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng tặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Bị cáo là người có nhân thân sấu, tại bản án số 45/HS-ST ngày 17/9/2019 Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt bị cáo 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thử thách 24 tháng về hành vi “Môi giới mại dâm” tính đến thời điểm phạm tội (Ngày 11/01/2021) bị cáo vẫn đang trong thời gian thử thách của án treo, bị cáo không lấy đó làm bài học cho ban thân mà tiếp tục phạm tội “Môi giới mại dâm” trong thời gian thử thách án treo, nên phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS và phải chịu tổng hợp hình phạt của hai bản án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 và khoản 5 điều 65 BLHS Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hà Thị L đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các quy định của pháp luật, đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù là phù hợp.
[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 328 của Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 50.000.000đồng. Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, là lao động tự do ở vùng nông thôn, thu nhập không ổn định, không co tai san có giá trị , hoàn cảnh kinh tế của gia đình bị cáo gặp nhiều khó khăn, nên miễn ap dung hinh phat bô sung là hình phạt tiền đôi vơi bi cao.
[6] Xử lý vật chứng:
Đối với số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Hà Thị L. Đây là số tiền thu lời bất chính mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F3 Plus, màu trắng màn hình bị vỡ và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo L, kết quả điều tra xác định bị cáo L sử dụng 02 chiếc điện thoại trên vào việc thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu bán sung công quỹ Nhà Nước.
Đối với 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Sankamura và 02 bao cao su đã qua sử dụng thu giữ tại phòng 202 và phòng 206 nhà nghỉ Hải Nam; 02 chiếc sim điện thoại số 033.850.6022 và số 0332571245 thu giữ của Hà Thị L cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 7 màu đen, lắp sim số 0954679106, đã qua sử dụng, thu giữ của chị Nguyễn Thị H, qua điều tra xác minh xác định đây là tài sản của Chị H dùng làm phương tiện liên lạc hàng ngày cần trả lại cho Chị H:
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, kiểm kiểm soát 19C1-297.83, đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị H, không phải là vật chứng của vụ án. Ngày 30/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại cho Chị H, nay chỉ cần xác nhận việc trả lại tài sản là hợp pháp.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng bạc lắp sim số: 0363849998, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Văn H1, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Đỗ Hải Đ (sinh năm: 2000, trú tại khu Đồng Lão, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ). Ngày 8/01/2021, anh Đ cho Anh H1 mượn điện thoại để liên lạc, không biết Anh H1 sử dụng điện thoại vào việc mua bán dâm. Ngày 30/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại cho anh Đ, nay chỉ cần xác nhận việc trả lại tài sản là hợp pháp.
Đối với một số giấy tờ liên quan đến hoạt động kinh doanh của nhà nghỉ Hải Nam cơ quan Điều tra đã thu giữ của ông Lê Hồng P nay cần trả lại cho ông P là phù hợp Đối với anh Nguyễn Văn H1, Đinh Văn Q, chị Nguyễn Thị H và Hà Thị L là những người thực hiện hành vi mua - bán dâm, Công an huyện Thanh Sơn đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với H1, Quyền, Hoa và bị cáo Lý về hành vi mua - bán dâm là hợp pháp.
Đối với bà Hà Thị Th khi nhận khách vào nghỉ tại nhà nghỉ Hải Nam đã kiểm tra giấy tờ tùy thân của khách, đồng thời chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra khi phát hiện hành vi vi phạm. Vì vậy, không xử lý trách nhiệm hình sự trong vụ án này là phù hợp.
Đối với ông Lê Hồng P là chủ sở hữu nhà nghỉ Hải Nam nởi sảy ra việc mua bán dâm nhưng ông P đã ủy quyền cho bà Th quản lý nhà nghỉ, khi sảy ra sự việc ông P không biết nên không đề cập xử lý
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 328, điểm s khoản 1Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điểm a khoản 1 Điều 55; Khoản 2 Điều 56; Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Hà Thị L phạm tội "Môi giới mại dâm".
Xử phạt Hà Thị L 15 (Mười lăm) tháng tù. Tổng hợp với 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 45/HS-ST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Buộc bị cáo Hà Thị L phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 27 (Hai bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được khấu trừ 09 (Chín) ngày tạm giữ (Từ ngày 11/01/2021 đến ngày 20/01/2021) của lần phạm tội này và khấu trừ 03 ngày tạm giữ (Từ ngày 01/3/2019 đến ngày 03/7/2019) của bản án số 45/HS-ST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hà Thị L.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1,2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F3 Plus màu trắng màn hình bị vỡ đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng và số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) thu giữ của Hà Thị L.
Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Sankamura và 02 bao cao su đã qua sử dụng thu giữ tại phòng 202 và phòng 206 nhà nghỉ Hải Nam; 02 chiếc sim điện thoại số 033.850.6022 và số 0332571245 thu giữ của Hà Thị L.
Trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 7 màu đen, lắp sim số 0954679106, đã qua sử dụng.
Trả lại cho ông Lê Hồng P gồm: 01 hợp đồng lao động số 03 ngày 24/3/2020 được ký kết giữa ông Lê Hồng P và bà Hà Thị Th; 01 giấy ủy quyền ngày 24/3/2020 giữa người ủy quyền là ông Lê Hồng P và người nhận ủy quyền là bà Hà Thị Th; 01 giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; 01 biên bản kiểm tra điều kiện an toàn về Phòng cháy và chữa cháy.
Vật chứng là vật đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/5/2021. Vật chứng là tài liệu giấy tờ hiện đang lưu tại hồ sơ vụ án. Vật chứng là tiền đang được bảo quản trong tài khoản số 3941.0.9044309.00000 của Công an huyện Thanh Sơn tại Kho bạc Nhà nước huyện Thanh Sơn.
Xác nhận ngày 30/1/2021 Cơ quan Điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 19C1- 297.83. Trả lại cho anh Đỗ Hải Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng bạc lắp sim số: 0363849998, đã qua sử dụng là hợp pháp.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hà Thị L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 29/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 29/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về