Bản án 29/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 29/2021/HS-PT NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 22/2021/TLPT-HS ngày 15-3-2021 đối với bị cáo Thạch M, do có kháng cáo của bị cáo M đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2021/HS-ST ngày 08/02/2021 của Tòa án nhân dân thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị cáo có kháng cáo: Thạch M; Sinh ngày 01-01-1982; Nơi sinh: Sóc Trăng; Nơi cư trú: Khóm 1, phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khmer; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ học vấn: 02/12; Con ông Thạch P (chết) và bà Ong Thị Sà L, sinh năm 1952; Anh, chị, em ruột: có 07 người; Vợ: Nguyễn Thị Cẩm N (đã ly hôn) và có 01 người con; Tiền sự: Có 01 tiền sự, vào ngày 17-12-2019 bị Công an phường 1, thị xã V xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Tiền án: Có 03 tiền án gồm Bản án số: 23/2002/HSST ngày 17-9-2002 bị Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 28 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số: 38/2006/HSST ngày 15-6-2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phạt 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, Bản án số: 41/2011/HSST ngày 11-8-2011 bị Tòa án nhân dân huyện V xử 07 năm tù về tội “Hiếp dâm”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05-10-2020 và chuyển tạm giam ngày 08-10-2020. Đến ngày 11-11-2020 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại và cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. (có mặt)

-Người bào chữa cho bị cáo Thạch M: Ông Nguyễn Văn N – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

Phiên dịch tiếng Khmer: Bà Sơn Hồng V- Cán bộ hưu trí.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 05-10-2020, tại số nhà 20/21 Khóm 1, Phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, Công an thị xã V kết hợp với Công an Phường 1 tiến hành kiểm tra và lập biên bản bắt quả tang bị cáo Thạch M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại hiện trường thu giữ vật chứng gồm 07 bịch ma túy cất giấu trên giường ngủ và các dụng cụ sử dụng ma túy. Toàn bộ số ma túy nêu trên, bị cáo Thạch M khai mua của một người đàn ông (không xác định được họ tên và địa chỉ) ở tỉnh B vào ngày 03-10-2020 với giá 900.000 đồng đem về cất giấu để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 130/GĐMT-PC09 ngày 10/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 2,0357 gam, loại Methamphetamine.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2021/HS-ST ngày 08-02-2021 của Tòa án nhân dân thị xã V, tỉnh Sóc Trăng quyết định:

Căn cứ vào: Điểm o khoản 2 và khoản 5 Điều 249; khoản 2 Điều 35; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên xử:

1. Xử phạt bị cáo Thạch M: 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tự nguyện thi hành án hoặc bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 05/10/2020 đến ngày 11/11/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Thạch M số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

- Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

* Đến ngày 23-02-2021, bị cáo Thạch M có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với các lý do: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có 01 đứa con còn nhỏ sinh ngày 20-7-2017 hiện nay mẹ của bị cáo đang nuôi dưỡng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Thạch M giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Thạch M giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Về tội danh và khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ thống nhất với bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, xin Hội đồng xét xử xem xét về hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo đang bị bệnh nặng, mức án 07 năm tù mà cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét Đơn kháng cáo của bị cáo Thạch M lập ngày 23-02-2021 và được Công an phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng xác nhận ngày 23-02-2021 là đúng quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung kháng cáo theo quy định của các điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo của bị cáo Thạch M về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Thạch M: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 05-10-2020, tại số nhà 20/21 Khóm 1, Phường 1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, Công an thị xã V lập biên bản bắt quả tang bị cáo Thạch M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại hiện trường thu giữ vật chứng gồm 07 bịch ma túy cất giấu trên giường ngủ và các dụng cụ sử dụng ma túy. Toàn bộ số ma túy nêu trên, bị cáo Thạch M khai mua của một người đàn ông (không xác định được họ tên và địa chỉ) ở tỉnh B vào ngày 03-10- 2020 với giá 900.000 đồng đem về cất giấu để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 130/GĐMT-PC09 ngày 10/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 2,0357 gam, loại Methamphetamine. Bị cáo Thạch M phạm tội lần này là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Khi lượng hình, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng và xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Sau khi phạm tội có thành khẩn khai báo; Bị cáo là người dân tộc Khmer và có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật cũng còn hạn chế; Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xét thấy, Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên và xử phạt bị cáo với mức án 07 năm tù là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật và tương xứng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ như không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo. Lý do bị cáo đưa ra để xin giảm nhẹ là bị cáo bị bệnh, con bị cáo còn nhỏ không phải là tình tiết giảm nhẹ.

[5] Từ những nhận định trên cho thấy không có cơ sở để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Thạch M phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng nhưng bị cáo được miễn.

[7] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thạch M về việc xin giảm nhẹ hình phạt. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2021/HS-ST ngày 08-02-2021 của Tòa án nhân dân thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

2. Căn cứ vào điểm o khoản 2 và khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 ; khoản 2 Điều 35; khoản 1 Điều 38; của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Thạch M: 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tự nguyện thi hành án hoặc bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 05/10/2020 đến ngày 11/11/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Thạch M số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về án phí:

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Thạch M được miễn án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về