TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 30 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 79/2021/TLST–HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Tòng Thị M, sinh năm 1991. Địa chỉ: Bản NX, xã MB, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Quàng Văn D, sinh năm 1986. Địa chỉ: Bản NX, xã MB, huyện ML, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh huyện ML, tỉnh Sơn La.
Người đại diện: Ông Nguyễn Trung Thành – Giám đốc. Có đề nghị xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Tòng Thị M trình bày:
Chị và anh Quàng Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, ngày 07/8/2009 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PT, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Quá trình chung sống, hòa thuận hạnh phúc thời gian đầu, đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Quàng Văn D nghiện ma túy, không chịu làm ăn, từ đó vợ chồng anh chị không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn đã được gia đình và chính quyền địa phương khuyên giải nhiều lần, nhưng không khắc phục được. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018, từ lâu hai vợ chồng đã không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu ly hôn anh Quàng Văn D.
Về con chung: Có hai con là Quàng Thị H, sinh ngày 15/10/2007 và Quàng Thị Kiều T, sinh ngày 06/11/2011. Chị xin trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục cả hai con, yêu cầu anh Quàng Văn D cấp dưỡng nuôi con cùng mỗi tháng mỗi con 2.000.000 đồng. Tuy nhiên tại đơn xin xét xử vắng mặt chị đã rút yêu cầu trên.
Về tài sản chung, tài sản riêng: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML số tiền gốc là 50.000.000 đồng, hiện đã trả được 25.000.000 đồng, còn nợ 25.000.000 đồng. Chị nhận trả toàn bộ số tiền 25.000.000 đồng và lãi phát sinh, không yêu cầu anh D có trách nhiệm trả nợ cùng.
Bị đơn anh Quàng Văn D từ chối trình bày.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML trình bày: Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 072612/HĐTD ngày 26/12/2014 gia đình anh Quàng Văn D, chị Tòng Thị M có vay số tiền là 50.000.000 đồng, mục đích vay: chi phí sản xuất, kinh doanh, đời sống hộ gia đình, thời hạn của hạn mức tín dụng 36 tháng. Đến ngày 06/6/2021 anh chị còn nợ số tiền gốc là 25.000.000 đồng. Nay anh D và chị M ly hôn Ngân hàng nhất trí để chị Tòng Thị M chịu trách nhiệm trả toàn bộ nợ gốc và lãi phát sinh.
Căn cứ vào ý kiến của cơ sở và các tài liệu chứng cứ trong vụ án xác nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Tòng Thị M và anh Quàng Văn D là có thật. Xác nhận nguyên nhân mâu thuẫn phù hợp với lời khai của chị Tòng Thị M.
Về con chung: Có hai con là Quàng Thị H, sinh ngày 15/10/2007 và Quàng Thị Kiều T, sinh ngày 06/11/2011.
Về tài sản chung, tài sản riêng: Không có.
Về nợ: Nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML số tiền gốc là 50.000.000 đồng, hiện đã trả được 25.000.000 đồng, còn nợ 25.000.000 đồng.
Ý kiến của Kiểm sát viên: Việc áp dụng pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng quy định.
Về nội dung:
Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Toà án.
Có căn cứ để xử cho chị Tòng Thị M được ly hôn anh Quàng Văn D;
Về con chung: Giao cho chị Tòng Thị M trực tiếp nuôi cháu Quàng Thị H và Quàng Thị Kiều T. Chị Tòng Thị M không yêu cầu anh Quàng Văn D phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ: Chị Tòng Thị M có trách nhiệm thanh toán trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML số tiền 25.000.000 đồng và lãi phát sinh.
Chị Tòng Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà và các quy định của pháp luật. Tòa án phân tích, đánh giá, nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Chị Tòng Thị M khởi kiện ly hôn anh Quàng Văn D có nơi cư trú tại bản NX, xã MB, huyện ML, tỉnh Sơn La. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La.
Nguyên đơn chị Tòng Thị M đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, đã nhận được giấy triệu tập và quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Quàng Văn D sau khi được thông báo về việc thụ lý vụ án đã từ chối khai báo, trình bày nguyện vọng. Anh Quàng Văn D đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng trong vụ án, đã được triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML có ý kiến về việc trả nợ trong hồ sơ vụ án, có đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự có đủ căn cứ để xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Tòng Thị M và anh Quàng Văn D kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được UBND xã PT, huyện ML, tỉnh Sơn La cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/8/2009, như vậy hôn nhân giữa chị M và anh D là hôn nhân hợp pháp Về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị M và anh D: Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Quàng Văn D sử dụng ma túy, không chịu làm ăn, từ đó vợ chồng anh chị không tìm được tiếng nói chung. Từ lâu hai người đã không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.
Tòa án nhân dân huyện ML đã tiến hành xác minh tại địa phương chị M và anh D sinh sống. Tại biên bản xác minh ngày 20/5/2021 xác nhận anh D và chị M có mâu thuẫn do anh D sử dụng ma túy, không chịu làm ăn, không quan tâm, chăm lo đến vợ con.
Xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng chị Tòng Thị M và anh Quàng Văn D đã được gia đình và chính quyền địa phương khuyên giải, đã kéo dài, trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nay chị Tòng Thị M yêu cầu được ly hôn là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Cần chấp nhận xử cho chị Tòng Thị M được ly hôn anh Quàng Văn D.
[3] Về con chung: Căn cứ vào nguyện vọng của các cháu cần giao cho chị Tòng Thị M trực tiếp nuôi các cháu Quàng Thị H và Quàng Thị Kiều T là đúng nguyện vọng của các cháu. Tại đơn xin ly hôn và bản tự khai chị Tòng Thị M đề nghị anh Quàng Văn D cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 2.000.000 đồng. Tuy nhiên tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị Tòng Thị M đã rút đề nghị này, cần chấp nhận. Chị M và anh D không ai phải cấp dưỡng nuôi con, theo quy định của các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản chung, tài sản riêng: Không có, không xem xét giải quyết.
[5] Về nợ chung: Chị Tòng Thị M và anh Quàng Văn D có nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML số tiền gốc là 50.000.000 đồng, hiện đã trả được 25.000.000 đồng, còn nợ 25.000.000 đồng. Chị Tòng Thị M và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML nhất trí chị Tòng Thị M trả toàn bộ số nợ gốc còn lại là 25.000.000 đồng và lãi phát sinh, cần chấp nhận.
[6] Về án phí: Căn cứ quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Toà án: Chị Tòng Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Toà án:
1. Xử cho chị Tòng Thị M được ly hôn anh Quàng Văn D.
2. Về con chung:
Giao cho chị Tòng Thị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Quàng Thị H, sinh ngày 15/10/2007 và cháu Quàng Thị Kiều T, sinh ngày 06/11/2011đến khi các cháu đủ tuổi thành niên và có khả năng lao động. Anh Quàng Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Tòng Thị M.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.
3. Về tài sản riêng, tài sản chung: Đều không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung: Chị Tòng Thị M có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh huyện ML số tiền 25.000.000 đồng (Hai mươi năm triệu đồng) và lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 072612/HĐTD ngày 26/12/2014.
5. Về án phí:
Chị Tòng Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 1.550.000 đồng (Một triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002170 ngày 16/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh Sơn La. Chị Tòng Thị M được nhận lại số tiền 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Chị Tòng Thị M, anh Quàng Văn D, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện ML được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 29/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về