TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 29/2019/HSST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 31/2019/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:
- Trần Văn V (Tên gọi khác BL) - Sinh ngày 16/02/1996, tại xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn MN, xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa, nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn L và bà Cao Thị O; vợ, con: Chưa có.
Tiền sự: Không;
Tiền án: Có 02 tiền án: Ngày 28/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và ngày 26/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc xử phạt 09 tháng tù theo về tội “Trộm cắp tài sản”.
Nhân thân: Ngày 14/5/2013 bị TAND huyện Ngọc Lặc xử phạt 18 tháng tù. Bị tạm giữ từ ngày 14/8/2019 và chuyển tạm giam từ ngày 23/8/2019 tại trại Tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa, (Bị cáo có mặt phiên tòa).
- Bị cáo: Phạm Văn G - Sinh ngày 18/7/1993, tại xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn B, xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn T và bà Trần Thị P; Vợ, con: Chưa có.
Tiền sự: Ngày 19/12/2018 bị Công an xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc, xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản Nhân thân: Ngày 19/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị tạm giữ từ ngày 14/8/2019 và chuyển tạm giam từ ngày 17/8/2019 tại trại Tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay đang chấp hành án theo Quyết định thi hành án số 44/2019/QĐ-CA ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc, (Bị cáo có mặt phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đặng Văn Đ-Trợ giúp viên pháp lý
Địa chỉ: Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 2, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt).
* Người bị hại: Anh Lê Thanh C - Sinh năm 1988.
Trú tại: Thôn TT, xã LS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).
* Người làm chứng:
- Ông Nguyễn Trọng V - Sinh năm 1982 và chị Lê Thị H - Sinh năm 1984.
Đều trú tại: Thôn M, xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).
- Anh Lê Văn T - Sinh năm 1989.
Trú tại: Thôn MC, xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).
- Cao Thị O - Sinh năm 1972.
Trú tại: Thôn MN, xã MS, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ, ngày 12/8/2019, Phạm Văn G đến nhà Trần Văn V chơi. Tại đây G và V cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Tài sản mà V và G nhằm để trộm cắp là chó của các nhà dân. V lấy một sợi dây dù dài khoảng 3m, buộc vào đầu một chiếc gậy bằng gỗ dài khoảng 1m tạo thành một chiếc thòng lọng để làm công cụ bắt chó. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Phạm Văn G điều khiển xe môtô BKS: 36K5 - 062.21 chở Trần Văn V cầm theo thòng lọng ngồi phía sau đi từ nhà V ra đường Hồ Chí Minh, khi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn MC, xã MS, huyện Ngọc Lặc, thì rẽ vào quốc lộ 516B chạy theo hướng đi xã Lam Sơn, huyện NL. Đi đến gần ngã ba xã LS cách ngã ba khoảng 200m thì phát hiện thấy con chó của gia đình anh Lê Thanh C, đang nằm ở lề đường bên trái theo hướng xã LS đi xã NT (đối diện với chợ xã LS). G điều khiển xe quay ngược lại và áp sát gần để V quăng chiếc thòng lọng vào cổ con chó sau đó kéo lê con chó trên đường đến đoạn gần kênh Nam sông Chu, Bắc sông Mã quan sát thấy không có người truy đuổi G dừng xe để V xuống bế con chó đặt lên yên xe. Sau đó, G tiếp tục điều khiển xe môtô chở V ngồi phía sau ôm theo con chó đến nhà anh Nguyễn Trọng V, sinh năm 1982, ở thôn M, xã MS, huyện NL, G đứng ở ngoài còn V dắt theo con chó vào bán cho anh V nhưng anh V không mua, nên G đi bộ đến nhà anh Lê Văn T (tên thường gọi là T), sinh năm 1989, ở thôn MC, xã MS, huyện NL hỏi bán chó, thì anh T đồng ý mua, nên G quay lại bảo V đem chó vào nhà anh T bán, tại đây V và anh T đã thỏa thuận và thống nhất mua bán con chó với giá 1.500.000đ (một triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau đó V và G cùng rủ nhau đi đến xã XB, huyện TX để mua ma túy sử dụng, nhưng không mua được, nên cả hai quay về, Trần Văn V chia cho Phạm Văn G 200.000đ, số tiền còn lại V và G cùng tiêu sài cá nhân hết.
Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 21/KL-HĐĐG ngày 19/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ngọc Lặc kết luận: 01 con chó giống đực, loại Béc giê Đức, màu lông đen - vàng, trọng lượng 30kg tại thời điểm mất trộm có giá trị 1.950.000 đồng.
Đối với anh Lê Văn T mua chó với Trần Văn V và Phạm Văn G không có sự hứa hẹn trước, tại thời điểm mua chó anh T không biết đó là tài sản do phạm pháp mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với số tiền 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm nghìn đồng) là số tiền mà anh Lê Văn Thủy đã mua con chó của Vũ và Giang, anh Thủy không yêu cầu Vũ và Giang bồi thường.
Đối với chiếc xe môtô BKS: 36K5 - 062.21, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là bà Cao Thị O là mẹ đẻ của Trần Văn V. Việc Trần Văn V và Phạm Văn G sử dụng chiếc xe môtô trên làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội bà O không biết, nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với chiếc thòng lọng mà V và G dùng để trộm cắp chó, sau khi trộm cắp chó xong V đã vứt ở dọc đường Hồ Chí Minh dọc theo phố Châu thuộc thôn Minh Châu 1, xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc, Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không có kết quả.
Bản cáo trạng số 30 ngày 15/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Lặc đã truy tố Trần Văn V và Phạm Văn G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Văn V từ 12 đến 15 tháng tù và áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 56 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phạm Văn G từ 09 đến 12 tháng tù và tổng hợp với hình phạt 06 tháng tù của bản án số 24 ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc theo quy định của pháp luật. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo và buộc bị cáo V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm văn G.
Tại phiên tòa ông Đặng Văn Đương bào chữa cho bị cáo Phạm Văn G thống nhất với điểm khoản và điều luật Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo Phạm Văn G, ông đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo yên tâm cải tạo lao đồng trở thành người tốt, sớm hòa nhập cộng đồng và đề nghị miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội và đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình phù hợp với quy định pháp luật, không có trường hợp nào bị khiếu nại, hoặc bị tố cáo phải giải quyết.
[2]. Về căn cứ định tội và định khung hình phạt đối với các bị cáo: Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng đã nêu, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 12/8/2019 Trần Văn V và Phạm Văn G, đã có hành vi lén lút chiếm đoạt con chó của anh Lê Thanh C giá trị 1.950.000đ (Một triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng). Mặc dù tài sản trộm cắp dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng), nhưng bị cáo Trần Văn V đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích và bị cáo Phạm Văn G đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố bị cáo Trần Văn V về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và truy tố Phạm Văn G về tội “trộm cắp tài sản”, theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất vai trò và mức độ phạm tội của các bị cáo trong vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Để giữ nghiêm pháp luật và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, phải lên cho các bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của từng bị cáo gây ra. Các bị cáo phạm tội không có sự phân công cấu kết chặt chẽ với nhau, nên trường hợp phạm tội của các bị cáo mang tính chất đồng phạm giản đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo cùng rủ nhau trộm cắp và cùng mang đi tiêu thụ, do đó các bị cáo có vai trò ngang nhau. Tuy nhiên bị cáo Trần Văn V đã có tiền án về tội “Ttrộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, bị cáo Phạm Văn G mới bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, nên mức án của Phạm Văn G sẽ thấp hơn mức án của bị cáo Trần Văn V là phù hợp với quy định tại Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phạm Văn G sẽ bị tổng hợp với hình phạt tại bản án số 24 ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc theo quy định tại Điều 56 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự và buộc bị cáo Phạm Văn G phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã chấp hành của bản án số 24 ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo: Bị cáo Trần Văn V và Phạm Văn G không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có nhân thân xấu, nên phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo là phù hợp.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Lê Thanh C đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về vật chứng: Xe mô tô BKS: 36K5 - 062.21, xác định chủ sở hữu là bà Cao Thị O, bà O không biết các bị cáo sử dụng xe mô tô làm phương tiện trộm cắp tài sản, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu quản lý, sử dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
[8]. Về án phí: Bị cáo Trần Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Phạm Văn G thuộc hộ Nghèo theo quy định của chính phủ, nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn G.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Trần Văn V và Phạm Văn G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào: Điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Trần văn V.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 14/8/2019.
Căn cứ vào: Điểm a Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 56 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Phạm Văn G.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn 09 (Chín) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 06 tại bản án số 24 ngày 19/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 15 (Mười Lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/8/2019 và được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ 03 (Ba) ngày (Từ ngày 23/4/2019 đến ngày 26/4/2019).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 và điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn G.
Các bị cáo Trần Văn V và Phạm Văn G được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 14/11/2019. Người bị hại là anh Lê Thanh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 29/2019/HSST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 29/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về