TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 29/2019/HSST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Mai Xuân G (tên gọi khác: Ba Gà) – sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Kim H – sinh năm 1963 và bà: Nguyễn Thị T – sinh năm 1968; tiền án: không; tiền sự: Ngày 25/6/2015, bị Công an huyện Đông Hòa xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, hiện chưa chấp hành. Nhân thân: Ngày 06 tháng 4 năm 2006, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/8/2019, có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:
1. Ông Đỗ V – sinh năm 1978; Vắng mặt.
2. Bà Đặng Thị T – sinh năm 1980; Vắng mặt.
Cùng cư trú: Khu phố C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
3. Bà Huỳnh Thị Thanh N – sinh năm 1970; Vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị Lưu H – sinh năm 1966; Vắng mặt.
Cùng cư trú: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Trần Minh L – sinh năm 1986; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
2. Bà Đặng Thị T – sinh năm 1980; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Khu phố C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
3. Ông Mai Kim H – sinh năm 1963; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
* Người làm chứng: Anh Huỳnh Lê D – sinh năm 1990; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Khu phố C, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 09/8/2019, Mai Xuân G điều khiển xe mô tô biển số 78H2-73XX (do ông H sở hữu) chở Trần Minh L từ xã Đ, huyện V, tỉnh Khánh Hòa về huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Trên đường đi, L rủ G trộm gà để bán lấy tiền tiêu xài. G đồng ý nên cả hai cùng đến nhà bà Huỳnh Thị Thanh N ở thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. L và G phát hiện có gà trong chuồng nên G đứng ngoài cảnh giới cho L vào bắt trộm 02 con gà. Sau đó, cả hai tiếp tục đến nhà bà Nguyễn Thị Lưu H cùng thôn bắt trộm 02 con gà rồi bỏ đi. Khi đến cổng chào thuộc thôn T, xã H, huyện Đ, và G phát hiện có 01 con chó đang chạy ở ngoài đường (chưa xác định chủ sở hữu) nên L và G bắt trộm rồi cả hai chạy xe đến nhà bà Đặng Thị T ở khu phố C, thị trấn H, huyện Đ để bán gà. Khi đến nhà bà T, G thấy cửa nhà mở, bên trong không có ai. Lợi dụng lúc bà T đang cân gà, G lén lút đi vào trong nhà lấy trộm 01 cái ví màu đen, bên trong có 19.000.000 đồng và một số giấy tờ của ông Đỗ V (chồng bà T) bỏ vào túi quần rồi đi ra ngoài. Sau khi bán gà cho bà T được 700.000 đồng xong, G và L điều khiển xe đến khu vực L thuộc khu phố A, thị trấn H, huyện Đ thì thấy tổ tuần tra của Công an huyện Đông Hòa nên G lấy tiền và ném giấy tờ ở khu vực gần đó rồi bỏ chạy. Đến ngày 20/8/2019, G bị bắt. Tại cơ quan điều tra, G đã khai toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản nói trên.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 43 ngày 16/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện Đông Hòa kết luận:
+ 01 con gà trống có trọng lượng 2,5 kg có giá 175.000 đồng;
+ 01 con gà trống có trọng lượng 02 kg có giá 140.000 đồng;
+ 01 con gà trống có trọng lượng 02 kg có giá 140.000 đồng;
+ 01 con gà trống có trọng lượng 2,1 kg có giá 147.000 đồng;
+ 01 con chó có trọng lượng 11,5 kg có giá 575.000 đồng; Tổng giá trị tài sản là: 1.177.000 đồng.
Vật chứng vụ án:
+ 01 con gà trống lông màu đen, trọng lượng 2,5 kg;
+ 01 con gà trống lông màu đỏ đen, trọng lượng 02 kg;
+ 01 con gà trống lông màu đỏ đen, trọng lượng 02 kg;
+ 01 con gà trống lông màu đỏ đen, trọng lượng 2,1 kg;
+ 01 xe mô tô biển số 78 H2-7308, số máy CR100FMG2009530, số khung CG0022R009530;
+ 01 ví da màu đen, 01 thẻ bảo hiểm;
+ Số tiền 8.700.000 đồng;
Các vật chứng trên đều đã trả lại cho chủ sở hữu.
+ 01 con chó lông màu đen, trọng lượng 11,5 kg đã xử lý tiêu hủy.
+ Đang tạm giữ: 01 sợi dây xích bằng kim loại màu nâu dài 1,5 mét Về dân sự: Bị hại bà Huỳnh Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Lưu H đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu gì về dân sự. Bị hại ông Đỗ V, bà Đặng Thị T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn lại là 10.300.000 đồng. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Đặng Thị T không có yêu cầu gì đối với số tiền 700.000 đồng đã đưa cho bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 26/CT-VKSĐH ngày 23/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hoà truy tố bị cáo Mai Xuân G về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin Tòa xử mức án thấp để bị cáo sớm trở về giúp đỡ gia đình.
Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Bị cáo G đã có hành vi cùng với L lén lút chiếm đoạt 04 con gà của bà Huỳnh Thị Thanh N và bà Nguyễn Thị Lưu H, 01 con chó (chưa rõ chủ sở hữu); bị cáo G một mình lén lút lấy trộm 01 cái ví màu đen, bên trong có số tiền 19.000.000 đồng và một số giấy tờ của ông Đỗ V (chồng bà T), tổng giá trị là 20.177.000 đồng. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mai Xuân G từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Về dân sự: Bị hại bà Huỳnh Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Lưu H đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì về dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà T không có yêu cầu gì về dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét. Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại vợ chồng ông Đỗ V, bà Đặng Thị T số tiền 10.300.000 đồng Vật chứng vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 sợi dây xích bằng kim loại màu nâu dài 1,5 mét; 01 con chó lông màu đen, trọng lượng 11,5 kg cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hòa đã xử lý tiêu hủy đúng quy định pháp luật, các vật chứng còn lại đã trả lại cho chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra thu thập đúng trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo không khiếu nại gì đối với các quyết định, văn bản tố tụng ở giai đoạn điều tra nên đều là chứng cứ hợp pháp.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 09/8/2019, trên địa bàn huyện Đ, tỉnh Phú Yên, Mai Xuân G đã có hành vi cùng với Trần Minh L lén lút chiếm đoạt 04 con gà của bà Huỳnh Thị Thanh N và bà Nguyễn Thị Lưu H, 01 con chó (chưa rõ chủ sở hữu); G một mình lén lút chiếm đoạt 01 cái ví màu đen, bên trong có 19.000.000 đồng và một số giấy tờ của ông Đỗ V (chồng bà T), tổng giá trị tài sản G chiếm đoạt là 20.177.000 đồng.
Với hành vi trên, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hoà truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.
Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác và gây mất trật tự trị an ở địa phương.
Bị cáo Mai Xuân G là thanh niên có đủ sức khỏe nhưng không chịu lao động để có thu nhập chính đáng, hợp pháp mà lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 06 tháng 4 năm 2006, bị Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản; Ngày 25/6/2015, bị Công an huyện Đông Hòa xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc nhưng bị cáo không sửa chữa mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện thái độ bất chấp, coi thường pháp luật. Vì vậy, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bị cáo đã thật thà khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đồng thời áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Về dân sự: Bị hại bà Huỳnh Thị Thanh N, bà Nguyễn Thị Lưu H đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì về dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà T không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xét. Về số tiền có trong ví của ông V bị bị cáo lấy trộm là tài sản chung của vợ chồng ông V bà T. Khi lấy, bị cáo chỉ biết trong ví có tiền nhưng không biết có bao nhiêu tiền. Quá trình điều tra, ông V bà T khai trong ví có 19.000.000 đồng, đã nhận lại 8.700.000 đồng, yêu cầu bị cáo bồi thường nốt 10.300.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông V bà T nên buộc bị cáo phải bồi thường cho vợ chồng ông Đỗ V, bà Đặng Thị T 10.300.000 đồng.
Vật chứng vụ án: Hội đồng xét xử xét thấy 01 sợi dây xích bằng kim loại màu nâu dài 1,5 mét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm 5% đối với số tiền phải bồi thường là: 10.300.000đ x 5% = 515.000 đ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Mai Xuân G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Mai Xuân G 01 (một) năm tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giam 20/8/2019.
* Về dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Mai Xuân G tiếp tục bồi thường cho vợ chồng ông Đỗ V, bà Đặng Thị T 10.300.000 đ (Mười triệu ba trăm nghìn đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa thi hành xong khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hòa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hòa.
* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Mai Xuân G phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 515.000 đ (năm trăm mười lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc bản án sơ thẩm được niêm yết.
Bản án 29/2019/HSST ngày 12/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 29/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về