TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 29/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ YÊU CẦU KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG
Trong ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2018 về việc “ Tranh chấp ly hôn và yêu cầu không công nhận vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số:09/2019 ngày 13/5/2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Bé E, sinh năm: 1983(Có mặt)
Địa chỉ: Tổ 1, ấp Hòa T, xã Vĩnh Hòa H, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1981 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Số nhà 5, tổ 0, ấp Thạnh Đ, xã Thạnh B, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/2/2019 và các lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Trương Thị Bé E trình bày:
Chị Trương Thị Bé E và anh Nguyễn Văn T chung sống với nhau vào ngày 21/8/2001, không có tổ chức đám cưới và không có đăng ký kết hôn. Trước khi chung sống anh chị có tìm hiểu nhau trước khoảng 3 tháng mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2010 thì anh chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Tươi thường xuyên đi tìm thú vui bên ngoài về tới nhà anh Tươi còn chửi chị với những lời lẽ thô tục. Từ đó anh chị luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp, hay cự cãi, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Bé E và anh T đã ly thân từ năm 2010 cho đến nay.
Về con chung: Quá trình chung sống chị Bé E và anh T có hai con chung tên Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 26 tháng 6 năm 2002 và cháu Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh ngày 21 tháng 5 năm 2010. Hiện nay cháu N và cháu Y đang ở với chị Bé E, chị Bé E yêu cầu được nuôi hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 07 tháng 4 năm 2019 cháu Nguyễn Thị Ngọc N và cháu Nguyễn Thị Ngọc Y khai. Cha cháu tên Nguyễn Văn T, mẹ Trương Thị Bé E hiện hai cháu đang ở với mẹ. Nếu cha mẹ cháu xin ly hôn thì nguyện vọng của hai cháu Ngọc N và Ngọc Y xin ở với mẹ Trương Thị Bé E.
Tại phiên tòa chị Trương Thị Bé E vẫn giử nguyên yêu cầu:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bé E yêu cầu xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn T và yêu cầu Tòa án không công nhận anh chị là vợ chồng.
- Về con chung: Chị Bé E yêu cầu được nuôi hai con chung tên Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 26 tháng 6 năm 2002 và cháu Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh ngày 21 tháng 5 năm 2010 không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt, hợp lệ giấy triệu tập cho anh Nguyễn Văn T tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và triệu tập tham gia phiên tòa, nhưng anh T đều không có mặt và không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Đây là quan hệ tranh chấp ly hôn không công nhận quan hệ hôn nhân. Bị đơn anh Nguyễn Văn T cư trú tại: Số nhà 5, tổ 0, ấp Thạnh Đ, xã Thạnh B, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang vụ án thuộc thầm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Theo quy định tại khoản 7 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự [2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Nguyễn Văn T mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn T.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Bé E và anh Nguyễn Văn T tự nguyện xác lập mối quan hệ hôn nhân từ năm 2001 tuy có đủ điều kiện kết hôn nhưng anh chị không đăng ký kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân của anh chị đã vi phạm về đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Việc kết hôn là không thỏa mãn về mặt hình thức.
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị Quyết 35 ngày 09 -6-2000 Quốc hội quy định: Kể từ ngày 01-01-2001 đến ngày 01-01-2003 trở đi, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Mặt khác căn cứ khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06-01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn và có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ”. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con… thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình.
Xét mâu thuẫn thực tế của vợ chồng chị Bé E và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung hiện tại không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Bởi lẽ, trong thời gian chung sống chị Bé E và anh T luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Mặc dù anh chị đã nhiều lần cố gắn nếu kéo nhưng không mang lại kết quả và anh chị đã ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Đồng thời hôn nhân của anh chị có vị phạm về mặt hình thức, nên Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Trương Thị Bé E và anh Nguyễn Văn T.
[4] Về con chung: Chị Bé E và anh T có hai con chung tên Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 26 tháng 6 năm 2002 và cháu Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh ngày 21 tháng 5 năm 2010. Chị Bé E yêu cầu được nuôi hai con.
[5] Xét yêu cầu nuôi con của chị Bé E Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay chị Bé E có thu nhập hàng tháng ổn định từ việc bán tạp hóa ở nhà. Từ khi chị E và anh T ly thân từ năm 2010 cho đến nay cháu N và cháu Y ở với chị Bé E, tâm sinh lý của hai bé phát triển bình thường và theo nguyện vọng của cháu N và cháu Y hai cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Bé E tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 26 tháng 6 năm 2002 và cháu Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh ngày 21 tháng 5 năm 2010 cho chị Trương Thị Bé E trực tiếp, trông nôm, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu N và cháu Y đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Chị Bé E không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trương Thị Bé E phải chịu án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 7 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228;Điều 271, và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53; các Điều 57, 81,82,83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Căn cứ khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06- 01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp.
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Thị Bé E.
1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Trương Thị Bé Em và anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 26 tháng 6 năm 2002 và cháu Nguyễn Thị Ngọc Y, sinh ngày 21 tháng 5 năm 2010 cho chị Trương Thị Bé E trực tiếp, trông nôm, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu N và cháu Y đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Chị Bé E không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trương Thị Bé E phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân và gia đình được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo lai thu sè: 0005390 ngày 04/3/2019 của Chi cục Thi hành dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
5. Quyền kháng cáo: Chị Trương Thị Bé E có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn T quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu không công nhận vợ chồng
Số hiệu: | 29/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về