Bản án 29/2018/HSST ngày 15/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 15/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15/3/2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2018/HSST ngày 12/02/2018  theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:

MAI ĐỨC T– Sinh năm: 1988, tại: Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: khu phố Z, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận;

Số CMND: 212265987 Nghề nghiệp: không;

Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh;

Con ông: Mai Đức H (chết); và bà: Nguyễn Thị C - 1958.

Tiền sự: không. Tiền án:

+ Ngày 27/6/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 91/2008/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/12/2008.

+ Ngày 16/6/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 102/2009/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2010.

+ Ngày 26/10/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 181/2010/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/3/2012.

+ Ngày 08/12/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng) theo bản án số 190/2015/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/11/2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày: 13/12/2017.

Chuyển sang tạm giam ngày: 22/12/2017

Bị cáo tạm giam có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Ông Nguyễn Mạnh Q, sinh năm 1988 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố S, phường Đg, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Thị Diệu H, sinh năm: 1997 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố Q, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 13/12/2017, Mai Đức T, sinh năm: 1988, HKTT: khu phố Z, phường Đ, thành phố P điều khiển xe mô tô biển số 86B6-020.12 đến phía trước nhà số 10-12 Trương Hán Siêu thuộc khu phố W, phường P, thành phố P. Tại đây, T dựng xe trước nhà trên và đi bộ vào bên trong lấy trộm một máy cắt kim loại hiệu Maktec MT 241, màu đỏ cam của anh Nguyễn Mạnh Q, sinh năm: 1988

HKTT: phường P, Quận 9, Tp. Hồ Chí Minh; tạm trú tại: khu phố S, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Khi Thi cầm máy cắt kim loại trên từ trong nhà ra và bỏ lên xe mô tô 86B6-020.12 để tẩu thoát thì bị tổ phòng chống tội phạm Công an thành phố Phan Thiết  và Công an phường Phú Thủy phát hiện truy đuổi đến địa bàn xã T, thành phố P thì bắt giữ được T cùng tang vật là máy cắt kim loại nêu trên. Sau đó, đưa T về trụ sở Công an phường Phú Thủy làm việc và Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Mai Đức T về hành vi “Trộm cắp tài sản” và thu giữ các vật chứng gồm:

+01 chiếc máy cắt kim loại màu đỏ, hiệu Maktec, đế màu đen.

+01 chiếc xe mô tô hiệu Hayate, màu đỏ, biển số 86B6-020.12.

Tại kết luận định giá tài sản số 247/KL-HĐĐG ngày 20/12/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận: 01 máy cắt kim loại hiệu Maktec, trị giá tài sản là 2.000.000 (Hai triệu) đồng.

Hiện Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại chiếc máy cắt kim loại màu đỏ hiệu Maktec MT 241 cho anh Nguyễn Mạnh Q là chủ sở hữu. Anh Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về phần dân sự.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Hayate, màu đỏ, biển số 86B6-020.12 mà T sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, kết quả xác minh thể hiện: chiếc xe trên do anh Nguyễn Văn M (sinh năm: 1986, trú tại khu phố V, phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận) đứng tên chủ sở hữu. Khoảng tháng 6/2017, anh M đã bán lại chiếc xe trên cho chị Nguyễn Thị Diệu H (sinh năm 1997, trú tại khu phố Q, phường L, thành phố P)- là người sống chung như vợ chồng với Mai Đức T, việc mua bán giữa anh M và chị H chỉ là thỏa thuận miệng, không có văn bản. Quá trình sử dụng, chị H chưa làm thủ tục sang tên chủ sở hữu. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của chị Hậu và tại thời điểm ngày 13/12/2017, chị H cho T mượn xe nhưng không biết việc T sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị Nguyễn Thị Diệu H. Sau khi nhận lại tài sản chị H cũng không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Hành vi vừa nêu trên của bị cáo Mai Đức T đã bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận truy tố tại bản cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 12/02/2018 về  tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu quan điểm xử lý về vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Mai Đức T, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Mai Đức T  từ 18 đến 24 tháng tù..

Bị cáo không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[[1] Mai Đức T là công dân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo có đủ nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Thế nhưng, vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã bất chấp các quy định đó của pháp luật. Vào khoảng 12 giờ trưa ngày 13/12/2017, Mai Đức T đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà số 10-12 Trương Hán Siêu thuộc khu phố W, phường P, thành phố P; lấy trộm một máy cắt kim loại hiệu Maktec MT241, trị giá 2.000.000 (Hai triệu) đồng của anh Nguyễn Mạnh Q; thì bị lực lượng Công an thành phố Phan Thiết kết hợp với Công an phường Phú Thủy tuần tra phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Rõ ràng hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Mai Đức T là hành vi cố ý, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, hơn nữa còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương. Hành vi vừa nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 như nội dung cáo trạng truy tố là có căn cứ.

[2] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề xuất của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy là hợp lý vì quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Mai Đức T đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999). Tuy nhiên, ngày 08/12/2015, Mai Đức T đã bị Tòa án nhân dân thành phố xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 25/11/2016, chấp hành xong hình phạt nên tính đến ngày 13/12/2017 bị cáo chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (tức là điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999).

[3] Vật chứng vụ án:

Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả chiếc xe mô tô biển số 86B6-020.12 cho chủ sở hữu là Nguyễn Thị Diệu H và trả lại chiếc máy cắt kim loại hiệu Maktec MT241 cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Mạnh Q; việc xử lý như trên là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật nên không đặt ra để xử lý nữa.

[4] Trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an Tp. Phan Thiết đã xử lý vật chứng, trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Mạnh Q chiếc máy cắt kim loại hiệu Maktec MT241 và trả lại cho chị Nguyễn Thị Diệu H chiếc xe mô tô biển số 86B6-020.12. Anh Q và chị H đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Xét thấy, đây là ý chí tự nguyện của các bên đương sự không trái với các quy định của pháp luật nên có cơ sở chấp nhận không đặt ra để giải quyết nữa.

[5] Đối với các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, kết luận điều tra cũng như Cáo trạng đã được Điều tra viên, Kiểm sát viên tống đạt hợp lệ cho bị cáo; đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về  án phí:  Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Mai Đức T, phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 và Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Mai Đức T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt ngày 13/12/2017.

Áp dụng: : Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mai Đức T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo; báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/3/2018). Ông Nguyễn Mạnh Q là người bị hại và bà Nguyễn Thị Diệu H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; vắng mặt tai phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

371
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HSST ngày 15/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về