Bản án 29/2018/HS-PT ngày 23/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 29/2018/HS-PT NGÀY 18/09/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 612/2017/TLPT-HS ngày 30/10/2017 đối với bị cáo Lê Công P do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 163/2017/HSST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Lê Công P; sinh năm 1978 tại Bến Tre; thường trú: khu phố X, phường Phú Khương, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến tre; chỗ ở: Lô Y, xã An Nhơn T, huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Công L (chết) và bà: Nguyễn Thị M (chết); có vợ tên Nguyễn Kiều O, sinh năm 1979 và 01 con sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: không; tạm giam từ 17/10/2016 đến 26/10/2016 được thay đổi biện pháp ngăn chặn; bị cáo tại ngoại (có mặt)

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Hoàng Phúc, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Bình P, bào chữa cho bị cáo Lê Công P (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/10/2016 tại đường Tỉnh lộ Z thuộc địa phận ấp Xóm N, xã An Nhơn T, huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Công P điều khiển xe ô tô (loại xe du lịch 7 chỗ màu trắng) biển số 51F-330.88 lưu thông với tốc độ khoảng 70-80 km/h trên đường Tỉnh lộ Z hướng từ đường Tỉnh lộ I về đường Nguyễn Thị R. Khi đến địa điểm trên đã gây tai nạn cho xe gắn máy biển số 52Y2-2155 do Nguyễn Hữu Đ điều khiển lưu thông theo hướng phía trước cùng chiều, chở sau xe là bạn tên Nguyễn Đức A. Xe ô tô cuốn xe gắn máy và hai người vào lề phải rồi kéo xuống lề đường một đoạn khoảng 20 mét thì dừng lại. Hậu quả sau tai nạn làm anh Nguyễn Hữu Đ và anh Nguyễn Đức A chết sau cấp cứu tại Bệnh viện Củ C cùng ngày.

Đoạn đường xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, trải nhựa bằng phẳng, rộng 5m50, giữa đường có làn sơn phân tuyến không liên tục, áp dụng lưu thông hai chiều. Bên trái đường hướng tỉnh lộ I – Nguyễn Thị R có giao cắt với đường đất giao thông nông thôn rộng 5m00. Tầm nhìn không bị che khuất, không biển báo, cọc tiêu, đèn tín hiệu.

Tại văn bản số 100/KQLGTDDT3-HT ngày 21/3/2017 của Khu quản lý giao thông đô thị số 3–Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh xác định: “Tuyến Tỉnh lộ Z là đường hai chiều không có dải phân cách giữa, do vậy theo Điều 6 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT và theo hướng dẫn của Sở Giao thôngvận tải  tại Thông báo số 919/TB-SGTVT ngày29/02/2016, tốc độ lưu thông tối đa của các phương tiện xe cơ giới là50km/h, trừ xe máy  chuyên dùng, xe gắn máy, kể cả xe máy điện và các loại xe tương tự”.Người  bị  hại Nguyễn Hữu  Đ  có  nồng  độ cồn  trong  máu  là133,08mg/ml, điều khiển xe gắn máy không làm chủ tay lái, vi phạm khoản8 Điều 24 Điều 8 Luật giao thông đường bộ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 163/2017/HSST ngày 19/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Công P phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm đ khoản 2, khoản 5 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Lê Công P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 17/10/2016 đến ngày 26/10/2016.

Cấm bị cáo đảm nhiệm, điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2017 bị cáo Lê Công P làm đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo và hủy bỏ hình phạt cấm đảm nhiệm, điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, kháng cáo của bị cáo Lê Công P là hợp pháp đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo P, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

Luật sư Nguyễn Hoàng Phúc bào chữa cho bị cáo Lê Công P không tranh luận về phần tội danh cũng như khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo P. Luật sư cho rằng mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nghiêm khắc, Hội đồng xét xử cần xem xét hoàn cảnh của bị cáo tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội là do vợ bị cáo bị thương, bị cáo phải đưa vợ nhập viện. Bị cáo P có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình những người bị hại, khi xảy ra sự việc bị cáo ra đầu thú, phía người bị hại cũng có một phần lỗi, gia đình người bị hại cũng có làm đơn bãi nại cho bị cáo, bị cáo hoàn toàn không mong muốn hậu quả chết người xảy ra. Ngoài ra bị cáo còn là lao động chính trong gia đình, có cậu ruột là Liệt sỹ nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo và không áp dụng thêm khoản 5 Điều 202 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tranh luận: bị cáo Lê Công P điều khiển xe ô tô có sử dụng bia rượu, điều khiển quá tốc độ cho phép nên mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp.

Luật sư cho rằng quá trình điều tra chỉ dựa vào lời khai của bị cáo chứ không có căn cứ nào khác để xác định được tốc độ điều khiển xe nên bị cáo không điều khiển xe quá tốc độ quy định.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Công P khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo và hủy bỏ hình phạt cấm đảm nhiệm, điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Củ C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ C, Kiểm sát viên, các quyết định của bản án sơ thẩm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện hợp pháp.

[2] Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/10/2016, Lê Công P đã điều khiển xe mô tô biển số 51F-330.88 lưu thông trên đoạn đường Tỉnh lộ Z thuộc địa phận ấp Xóm N, xã An Nhơn T, huyện Củ C, Thành phố Hồ Chí Minh. Do không giữ khoảng cách an toàn đối với xe liền trước nên P đã để một phần đầu xe ô tô của mình đụng thẳng vào phía sau chiếc xe gắn máy biển số 52Y2-2155 do anh Nguyễn Hữu Đ điều khiển, chở theo sau là anh Nguyễn Đức Toàn lưu thông theo hướng phía trước cùng chiều, hậu quả là làm cho anh Đại và anh Toàn chết ngay sau đó. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo P về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Điều 202 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 1528/TT.16  ngày11/11/2016 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Hữu Đ, kết luận nguyên nhân chết:  Đa chấn thương/ Nồng độ Ethanol cao  nhẹ so với mức  quy định (nồng độ Ethanol trong máu là133,08mg/100 ml máu).

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 1529/TT.16  ngày 14/11/2016 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Đức Toàn, kết luận nguyên nhân chết: Đa chấn thương/ Nồngđộ Ethanol cao nhẹ so với mức quy định (nồng độ Ethanol trong máu l66mg/100 ml máu).

Trong vụ án này Lê Công P đã làm chết cho 02 người, là thuộc trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị P về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là đúng quy định pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo tự nguyện bồi thường toàn bộ chi phí để khắc phục hậu quả, gia đình người bị hại có làm đơn bãi nại cho bị cáo, bị cáo ra đầu thú, lỗi một phần cũng thuộc về phía người bị hại, gia đình bị cáo có công với cách mạng để áp dụng các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự cho bị cáo như lời bào chữa của Luật sư là có căn cứ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Lê Công P không xuất trình thêm tình tiết nào mới để xem xét. Hội đồng xét xử xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là đúng với tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như phù hợp với nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 5 Điều 202 của Bộ luật hình sự để cấm bị cáo đảm nhiệm, điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù là không cần thiết do bị cáo P hiện là lao động chính trong gia đình, cần sử dụng phương tiện giao thông để đi lại và làm việc.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc giữ nguyên mức án đã tuyên đối với Lê Công P là phù hợp; Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận lời bào chữa của Luật sư cũng như kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo; có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc hủy bỏ hình phạt cấm đảm nhiệm, điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

[4] Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về giữ nguyên mức hình phạt đối với Lê Công P; không chấp nhận quan điểm bào chữa của Luật sư và kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo về hủy bỏ việc áp dụng cấm đảm nhiệm, điều khiển các phương tiện giao thông cơ giới trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù theo khoản 5 Điều 202 của Bộ luật hình sự.

[5] Bị cáo Lê Công P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Công P, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung.

Tuyên bố Lê Công P phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Lê Công P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giam trước từ ngày 17/10/2016 đến 26/10/2016.

Bị cáo Lê Công P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HS-PT ngày 23/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:29/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về