Bản án 29/2018/HNGĐ-ST ngày 17/08/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 29/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2018/ TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2018 về việc: “ Tranh chấp về hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2017/QĐXX-ST ngày 16 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị Ng, sinh năm 1992

Địa chỉ: Thôn D T Đ, xã P L, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình

Bị đơn: Anh Mai Viết Đ, sinh năm 1989

HKTT: Thôn D T, xã P L, huyện Đ H, tỉnh Thái Bình

(Có mặt chị Ng, vắng mặt anh Đ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 18/4/2018 và trong quá trình tố tụng chị Đoàn Thị Ng trình bày:

Chị và anh Đ kết hôn do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ph L, giấy chứng nhận kết hôn số 19/2015 ngày 23/3/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Đ không tu chí làm ăn, ham mê lô đề, cờ bạc không quan tâm đến gia đình vợ con, chị Ng đã nhiều lần cùng gia đình khuyên bảo nhưng anh Đ không thay đổi. Tháng 4/2018 vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng, chị Ng chán nản đã bỏ về bên ngoại sinh sống. Nay chị xác định cảm vợ chồng không còn, chị xin được ly hôn anh Đ, dù anh Đ có xin đoàn tụ chị cũng không chấp nhận.

Về con chung: Chị Ng và anh Đ có 01 con chung là Mai Kiều L sinh ngày 15/5/2015. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con L yêu cầu anh Đạt cấp dưỡng nuôi con cùng chị mức 1.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 17/5/2018 và trong quá trình tố tụng anh Mai Viết Đ trình bày: Anh xác định việc chị Ng trình bày về hoàn cảnh điều kiện và thời gian kết hôn của vợ chồng là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân một phần do anh nóng nảy, một phần do anh mải chơi ít quan tâm đến vợ con. Ngày 13/4/2018 vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng do anh Đ bị Công an huyện Đ H bắt giữ vì nghi ngờ anh liên quan đến việc ma túy. Tuy nhiên sau này Công an huyện ĐH đã xác định anh không có liên quan đến việc mua bán ma túy mà chỉ đi cùng người bạn có hành vi mua bán ma túy. Nay chị Ng xin ly hôn, anh không mong muốn, anh xin được đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con chung. Nếu chị Ng cố tình xin ly hôn anh phải chấp nhận

Về con chung : Anh nhất trí với ý kiến chị Ng đã trình bày về con chung. Nếu phải ly hôn anh đồng ý giao con cho chị Ng nuôi và cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mức 1.000.000 đồng/tháng

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng phát biểu quan điểm việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi nghị án đúng quy định của pháp luật việc chấp hành pháp luật của chị Ng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi nghị án đúng quy định của pháp luật đối với anh Đ chưa tuân thủ quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị Ng đề nghị HĐXX xử cho chị Ng được ly hôn anh Đ, giao con chung cho chị Ng nuôi anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con theo pháp luật. 

Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Ng có đơn yêu cầu giải quyết việc ly hôn anh Đ tại Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng.

Anh Đ vắng mặt lần thứ hai mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án Đông Hưng vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ng, anh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P L là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Đ mải chơi bời ít quan tâm đến gia đình vợ con tính tình lại nóng nảy nên vợ chồng thường xảy ra xô xát, chị Ng đã góp ý nhiều lần nhưng anh Đ không thay đổi. Tháng 4/2018 mâu thuẫn căng thẳng, chị Ng đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng sống ly thân cho đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nay chị Ng xin ly hôn, anh Đ không mong muốn nhưng không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Khi Tòa án hòa giải và tại phiên tòa anh Đ vắng mặt điều đó thể hiện việc anh không thiết tha đoàn tụ. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần chấp nhận nguyện vọng của chị Ng xử cho chị Ng được ly hôn anh Đ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Chị Ng và anh Đ có 01 con chung là Mai Kiều L sinh ngày 15/5/2015. Ly hôn chị Ng xin được trực tiếp nuôi con yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con cùng chị mức 1.000.000đồng /tháng. Anh Đ cũng có ý kiến nếu phải ly hôn thì chấp nhận việc giao con cho chị Ng nuôi và chấp nhận mức cấp dưỡng theo yêu cầu của chị Ng là 1.000.000đồng/tháng. Do vậy cần giao cho chị Ng nuôi con chung và buộc anh Đ cấp dưỡng nuôi con cùng chị Ng mức 1.000.000đồng/tháng.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Ng là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Anh Đ là người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải chịu án phí đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quyđịnh về mức thu án, lệ phí Tòa án. Khoản 1 Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình. Tuyên xử :

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị Ng được ly hôn anh Mai Viết Đ.

2/ Về con chung: Giao con chung Mai Kiều L sinh ngày 15/5/2015 cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ng 1.000.000 đồng/tháng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 8/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở.

3/ Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Ng phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Được khấu trừ số tiền chị Ng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0007700 ngày 18/4/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hưng.

Anh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

5/ Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, với người có mặt tính từ ngày tuyên án, với người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc được Tòa án tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HNGĐ-ST ngày 17/08/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:29/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về