Bản án 29/2017/HNGĐ-ST ngày 29/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 216/2017/TLST- HNGĐ ngày 10/7/2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2017/QĐST-HNGĐ ngày 12/9/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1996

Trú tại: Số nhà A, khu dân cư T, phường Sao Đỏ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1990

Trú tại: Thôn T, xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Chị H có mặt, anh V vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ly hôn ngày 26/6/2017 và các buổi làm việc với Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn V đăng ký kết hôn ngày 04/12/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống tại nhà bố mẹ đẻ anh V ở thôn Thanh Tảo, xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương; tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận; đến khoảng tháng 8/2016 anh V vào Đà Nẵng làm ăn đến tháng 10/2016 chị sinh con chung được ít ngày thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cách ứng xử với gia đình; anh V nghe lời gia đình và không tin tưởng chị, đuổi chị và con ra khỏi nhà. Chị đã đưa con về nhà mẹ đẻ chị ở từ cuối tháng10/2016 cho đến nay; tháng 5/2017 anh V về nhà cũng không chịu thay đổi tínhnết, không quan tâm đến vợ con; vợ chồng không còn sống chung với nhau khoảng gần 01 năm nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng của chị đối với anh V không còn, vợ chồng không thể về đoàn tụ với nhau được, chị làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung Nguyễn Gia Khánh, sinh ngày 10/10/2016, đang ở với chị. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị. Chị đang ở và làm công việc cắt tóc, gội đầu tại nhà mẹ đẻ; thu nhập bình quân khoảng 6.000.000đ/tháng.

Về quan hệ tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn, anh Nguyễn Văn V:

Chị H trình bày khi chị nộp đơn khởi kiện ly hôn thì anh V có mặt tại địa phương; Tòa án đã tiến hành gửi thông qua đường Bưu Điện và tống đạt thông qua người thân các văn bản tố tụng thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần cho anh V nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do.

Người làm chứng bà Lương Thị T là mẹ đẻ anh V cung cấp anh V có nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án; vợ chồng anh V chị H có mâu thuẫn cãi nhau trên điện thoại, khoảng tháng 10/2016 chị H tự ý đưa con về nhà mẹ đẻ sống riêng cho đến nay, tháng 5/2017 anh V về nhà đến thăm vợ, con nhưng chị H không chấp nhận; bà đã động viên vợ chồng về đoàn tụ nhưng không thành.

Tại phiên toà:

- Chị H trình bày yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn V; khi ly hôn yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và tự nguyện không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung với chị, không yêu cầu giải quyết về tài sản.

- Anh Nguyễn Văn V vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ thời điểm thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định về nghĩa vụ phải có mặt khi tham gia tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ); Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS); Luật phí và lệ phí; xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H, xử cho chị H được ly hôn với anh V;

Giao con chung Nguyễn Gia Khánh, sinh ngày 10/10/2016 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản không phải đặt ra giải quyết; Chị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Sau khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn", bị đơn, anh Nguyễn Văn V mặc dù có mặt tại nơi cư trú và đã được Tòa án gửi thông qua đường bưu điện và thông qua người thân các văn bản tố tụng gồm thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do nên vụ án được đưa ra giải quyết thuộc trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

Bị đơn, anh Nguyễn Văn V không có yêu cầu phản tố, vắng mặt tại phiên tòa mà không có người đại diện tham gia phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H yêu cầu được ly hôn với anhNguyễn Văn V:

Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn V kết hôn với nhau ngày 04/12/2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương nên là hôn nhân hợp pháp. Sau lễ cưới vợ chồng chung sống tại gia đình nhà chồng, tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận đến khoảng tháng 8 năm 2016 anh V vào thành phố Đà Nẵng làm ăn, đến tháng 10/2016 chị H sinh con chung được một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn to tiếng với nhau khi liên lạc; bất đồng quan điểm với nhau về cách ứng xử trong gia đình, chị H đã đưa con chung về nhà mẹ đẻ sống riêng tháng 10/2016 cho đến nay. Tháng 5/2017 anh V về nhà có đến thăm vợ, con nhưng chị H không tự nguyện về đoàn tụ. Kết quả thu thập tài liệu chứng cứ thể hiện vợ chồng anh V và chị H không còn sống chung với nhau. Người làm chứng bà Lương Thị T là mẹ đẻ anh V cung cấp bà đã động viên vận động vợ chồng về đoàn tụ nhưng không thành chứng tỏ vợ chồng chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn với anh Nguyễn Văn V  là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Nguyễn Gia Khánh, sinh ngày 10/10/2016 ở độ tuổi dưới 36 tháng tuổi; chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng và khi ly hôn có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung; chị H đang ở nhà mẹ đẻ nên có nơi ở để nuôi con; chị H làm công việc cắt tóc có thu nhập ổn định 6.000.000đ/tháng là có đủ điều kiện về thu nhập để nuôi con nên giao con chung Nguyễn Gia Khánh cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là đảm bảo được lợi ích về mọi mặt của cháu Khánh và phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HN&GĐ. Chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung với chị là hoàn toàn tự nguyện nên được chấp nhận.

Anh V không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở anh V thực hiện quyền này.

[4] Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56; 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 207; khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 .

Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn V.

Về quan hệ con chung: Xử giao con chung Nguyễn Gia Khánh, sinh ngày 10/10/2016 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị.

Anh V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở anh V thực hiện quyền này.

Về quan hệ tài sản: Không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 147 BLTTDS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn và được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ mà chị H đã nộp theo biên lai thu số: AA/2016/0000173, ngày 10/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Anh Nguyễn Văn V vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2017/HNGĐ-ST ngày 29/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về