Bản án 29/2017/HNGĐ-ST ngày 20/12/2017 về ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/12/2017 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 20 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 242/2017/TLST-HNGĐ ngày 24/10/2017 về việc: “Ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2017/QĐST-HNGĐ ngày 04/12/2017, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Phùng Văn H , sinh năm 1978. (có mặt)

* Bị đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1986.(vắng mặt) ĐKHKTT và trú tại: Thôn T, xã H, huyện TH, tỉnh Hải Dương.

Người làm chứng:

- Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1955 (vắng mặt)

- Bà Phạm Thị N, sinh năm 1963 (vắng mặt)

Đều trú tại: Thôn T, xã H, huyện TH, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn – anh Phùng Văn H - trình bày:

Anh Phùng Văn H và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện TH, tỉnh Hải Dương ngày 09-9-2010. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau được 7 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, chị D bỏ nhà anh về nhà bố mẹ đẻ ở. Nguyên nhân là do chị D hỗn láo với gia đình anh và chê gia đình anh nghèo. Khi đó, chị D đang mang thai được 7 tháng. Khi sinh con, chị D không thông báo nên anh và gia đình không biết để đến thăm nom. Khi anh biết, anh đến thăm nom con thì chị D không đồng ý. Anh H đã đến đón chị D mấy lần để vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nhưng chị D không về chung sống cùng anh Hiền nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh chị sống ly thân đã lâu anh xin được ly hôn chị D.

Về con chung: Anh chị có một con chung là Phùng Văn P, sinh ngày 16-5-2011, cháu P đang ở với chị D. Khi ly hôn, anh xin được nuôi con chung, không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Nếu chị D kiên quyết xin nuôi con, anh cũng đồng ý. Anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D số tiền 800.000đ/tháng. Hiện nay anh làm nông nghiệp, thu nhập rất thấp. Anh vẫn đang sống cùng bố mẹ đẻ, chưa có nhà riêng. Chị D làm công nhân và đang ở cùng nhà với bố mẹ đẻ.

Về tài sản: Anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung, không cho ai vay nợ chung, không có công sức đóng góp với gia đình hai bên nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và quá trình giải quyết tại Tòa án – bị đơn – chị Nguyễn Thị D trình bày:

Chị Nguyễn Thị D trình bày thống nhất với anh H về điều kiện, thời gian kết hôn. Anh chị chung sống một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do mẹ đẻ anh H khó tính, anh H lại nghe lời mẹ, đối xử với chị không tốt. Khi chị mang thai được 7 tháng, chị không thể chịu đựng được nên đã bỏ về nhà bố mẹ chị ở cho đến nay. Vợ chồng cũng không còn quan tâm đến nhau. Nay anh H xin ly hôn chị, chị không đồng ý vì chị căm phẫn gia đình anh H, chị không thể dễ dàng tha thứ cho anh H. Chị không đồng ý giao cho Tòa án bản sao giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ tùy thân của chị.

Về con chung: Chị D trình bày thống nhất như anh H. Từ khi chị sinh con đến nay, chị phải nuôi con một mình. Anh H không có trách nhiệm với con. Nếu phải ly hôn, tôi xin được nuôi con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị theo quy định của pháp luật. Hiện chị đang làm công nhân tại công ty TNHH may Makalot, thu nhập bình quân 5.000.000đ/tháng. Chị có đủ khả năng nuôi con chung. Chị D đồng ý với mức cấp dưỡng nuôi con chung 800.000đ/tháng của anh H.

Về tài sản: Anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung, không cho ai vay nợ chung, không có công sức đóng góp với gia đình hai bên nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại địa phương: Anh H và chị D kết hôn với nhau và chung sống tại địa phương. Anh chị có mâu thuẫn nên chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng sống ly thân nhau đã 6 năm nay. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng thì địa phương không nắm được. Hai mẹ con chị D hiện đang sống ở nhà bố mẹ đẻ chị D.

Người làm chứng - bà Phạm Thị N trình bày: Chị D về sống với gia đình bà khi đang mang thai 7 tháng đến nay đã hơn 6 năm. Bà hỏi nguyên nhân thì chị D cho biết không thể sống cùng gia đình anh H được. Anh H và gia đình đối xử với chị Duyên không tốt. Kể từ khi chị D sinh con, anh H và gia đình không một lần đến thăm. Nay anh H xin ly hôn chị D, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Bà Nguyễn Thị O trình bày: Chị D và anh H kết hôn năm 2010. Sau khi kết hôn, anh chị sống cùng với gia đình bà. Một thời gian ngắn sau, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị D không hòa hợp với gia đình bà. Khi chị D mang thai được 7 tháng, chị D tự bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Khi chị D sinh con, gia đình bà có đến thăm cháu nhưng chị D không đồng ý cho thăm nom. Anh H và chị D ly thân nhau đã lâu, không còn tình cảm với nhau. Đề nghị Tòa án cho anh chị ly hôn để ổn định cuộc sống. Anh chị có một con chung hiện đang ở với chị D.

Chị D xin vắng mặt tại các buổi làm việc của Tòa án nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, anh H vẫn giữ nguyên quan điểm khởi kiện. Chị D vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án và các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án chấp hành đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí, lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng tuyên xử cho anh Phùng Văn H được ly hôn chị Nguyễn Thị D.

Về con chung: Khi ly hôn, giao cháu Phùng Văn P, sinh ngày 16-5-2011 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phùng Văn H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D là 800.000đ/tháng. Thời gian giao con và cấp dưỡng kể từ tháng 12 năm 2017 đến khi cháu Phúc thành niên, tròn 18 tuổi. Anh Phùng Văn H được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng quyền thăm nom con chung để gây cản trở việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị D. Anh phùng Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của nguyên đơn, bị đơn đã được tranh tụng tại phiên tòa, bài phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Chị D đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa. Chị D có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt chị. Căn cứ Khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét vẫn tiến hành xét xử vụ án.

2. Về quan hệ vợ chồng: Anh Phùng Văn H và chị Nguyễn Thị D tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn có đăng ký ngày 09-9-2010 tại UBND xã H, huyện TH, tỉnh Hải Dương là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn anh H và chị D chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Chị D và gia đình chồng có mâu thuẫn với nhau. Nguyên nhân của mâu thuẫn theo anh H là do chị D không hòa hợp với gia đình anh. Theo chị D là do anh H và gia đình chồng đối xử với chị không tốt. Khi chị có thai được 7 tháng, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị sinh sống. Anh chị sống ly thân nhau từ đó đến nay. Anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng ly thân nhau đã lâu, anh xin ly hôn chị D. Chị D cũng xác định vợ chồng ly thân nhau đã lâu, không còn quan tâm đến nhau nhưng chị không đồng ý ly hôn với anh H. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn giữa chị D và anh H là có thật và đã trầm trọng, anh chị sống ly thân nhau đã lâu, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị không còn tình cảm và nghĩa vụ vợ chồng với nhau. Chị D không đồng ý ly hôn chỉ vì chị căm phẫn gia đình và không dễ tha thứ cho anh H chứ chị không có yêu cầu đoàn tụ, không đến Tòa án để hòa giải. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh H, cho anh H được ly hôn với chị D.

3. Về con chung: Anh chị có một con chung là Phùng Văn P, sinh ngày 16-5-2011. Cháu P hiện đang ở với chị D. Anh chị đã thống nhất được với nhau: Khi ly hôn, giao cháu P cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D là 800.000đ/tháng, thời gian kể từ tháng 12 năm 2017 đến khi cháu P thành niên , tròn 18 tuổi. Thỏa thuận này của anh chị phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

4. Về tài sản: Vợ chồng chị D và anh H đã thống nhất xác định trong thời kỳ hôn nhân anh chị không có tài sản chung, nợ chung, cho vay nợ chung, không có công sức đóng góp chung với hai bên gia đình nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Anh Phùng Văn H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Khoản 4 Điều 147; Khoản 2 Điều 227, Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Anh Phùng Văn H được ly hôn chị Nguyễn Thị D.

2. Về con chung: Khi ly hôn, giao cháu Phùng Văn P, sinh ngày 16-5- 2011 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Phùng Văn H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D là 800.000đ/tháng. Thời gian giao con và cấp dưỡng kể từ tháng 12 năm 2017 đến khi cháu P thành niên , tròn 18 tuổi.

Anh Phùng Văn H được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng quyền thăm nom con chung để gây cản trở việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị D.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị D có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Anh Phùng Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con. Đối trừ khoản tiền tạm ứng án phí mà anh H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AB/2014/0001029 ngày 24/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Anh H còn phải thi hành tiếp 300.000đ án phí.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơncó quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hánh án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2017/HNGĐ-ST ngày 20/12/2017 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:29/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về