TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 29/2017/HNGĐ-PT NGÀY 19/12/2017 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 19 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2017/TLHNGĐ-PT ngày 26 tháng 10 năm 2017 về xin ly hôn.
Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 85/2017/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đ L bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 239/2017/QĐ-PT ngày 01 tháng 11 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 120/2017/QĐ-PT ngày 21/11/2017; Thông báo mở lại phiên tòa số 764/TB-PT ngày 08/12/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L A, sinh năm 1989
Cư trú tại: Số 104 B V D, khóm 4, phường 5, thành phố C M, tỉnh C M.
- Bị đơn: Anh Nguyễn K, sinh năm 1987
Cư trú tại: Số 14/6, đường P t, phường 4, thành phố Đ L, tỉnh Lâm Đồng.
Do có kháng cáo của bị đơn Anh Nguyễn K.
(Các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2017 và quá trình tham gia tố tụng, Chị Nguyễn Thị L A trình bày.
Chị với Anh Nguyễn K kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND phường 5, thành phố Đ L, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ chồng tại số 14/6, đường P t, phường 4, thành phố Đ L. Ngay sau khi kết hôn thì chị có thai, anh K lại thường xuyên rượu chè, làm mất lòng tin gia đình nên chị thường xuyên bị gia đình chồng la mắng còn anh K thì nhiều lần đuổi chị ra khỏi nhà, dùng những lời lẽ xúc phạm vì cho rằng chị ăn bám, vô dụng. Cho đến đỉnh điểm là bố mẹ anh K đuổi cả hai vợ chồng chị ra khỏi nhà. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân được 07 tháng, sau thời gian tìm cách khắc phục mâu thuẫn nhưng không được. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên xin được ly hôn với anh K.
Theo bản tự khai và lời khai trong quá trình tố tụng bị đơn Anh Nguyễn K trình bày:
Về quan hệ hôn nhân như chị L A trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp với cha mẹ của anh nên vợ chồng đã cùng nhau về tỉnh C M sinh sống một thời gian, sau đó mâu thuẫn lại tiếp tục xảy ra khi anh về Đ L, do công việc của anh ở Đ L và muốn vợ chồng cùng nhau làm ăn để nuôi dạy con chung nên anh đã nhiều lần khuyên chị L A về Đ L nhưng chị L A không chịu nên anh đã về C M đón con về Đ L sống với mục đích để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị L A vẫn không chịu. Nay chị L A xin ly hôn thì anh không đồng ý vì anh vẫn còn thương yêu vợ con, anh mong muốn chị L A suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ cùng nuôi dạy con trưởng thành.
Về con chung: Chị L A và anh K cùng xác định vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Khắc H, sinh ngày 25/12/2015, hiện cháu H đang ở với gia đình anh K. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì chị L A và anh K đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị L A và anh K đều xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.
Tòa án đã hòa giải nhưng không thành.
Tại bản án sơ thẩm số 85/2017/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đ L đã xử:
Chấp nhận yêu cầu của Chị Nguyễn Thị L A về việc “Xin ly hôn”. Cho Chị Nguyễn Thị L A và anh Nguyễn K được ly hôn.
Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Khắc H, sinh ngày 25/12/2015 cho chị L A trực tiếp nuôi dưỡng. Anh K không phải cấp dưỡng nuôi con.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của các đương sự.
Ngày 27/9/2017 Anh Nguyễn K kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 85/2017/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đ L.
Tại phiên tòa hôm nay: Bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, không đồng ý với kháng cáo của bị đơn và đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng thời, nêu quan điểm đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Anh Nguyễn K. Căn cứ khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận; Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ hôn nhân giữa Chị Nguyễn Thị L A và Anh Nguyễn K là hợp pháp, quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai bên bất đồng về quan điểm sống. Quá trình giải quyết vụ án, chị L A xác định tình cảm vợ chồng không còn, hai người không có sự tin tưởng, thương yêu nhau nữa. Về phía bị đơn anh K cho rằng, mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, có thể khắc phục được, anh vẫn còn thương yêu vợ, con nên không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, quá trình hòa giải và xét xử tại cấp sơ thẩm anh K đều vắng mặt, tại phiên tòa phúc thẩm mở ngày 21/11/2017 anh K có đơn xin hoãn phiên tòa và tại phiên tòa này 19/12/2017 anh K có đơn xin xét xử vắng mặt và không đưa ra được biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy cuộc sống chung giữa chị L A và anh K không có sự hòa hợp, hai người đã sống ly thân với nhau, không tìm được tiếng nói chung, tình cảm vợ chồng không còn, không quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai người đó sống, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cấp sơ thẩm giải quyết cho hai bên được ly hôn với nhau là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của anh K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[2] Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án, chị L A và anh K đều có nguyện vọng trực tiếp được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng chị L A và anh K đều có điều kiện kinh tế nuôi con chung. Tuy nhiên, hiện nay cháu Nguyễn Khắc H, sinh ngày 25/12/2015 còn rất nhỏ, cần có sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của người mẹ. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, cấp sơ thẩm đã giao cháu Nguyễn Khắc H cho chị L A trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Từ những phân tích trên, cấp sơ thẩm đã đánh giá toàn diện chứng cứ nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Anh Nguyễn K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên Anh Nguyễn K phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Anh Nguyễn K: Giữ nguyên Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 85/2017/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đ L về việc “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn Chị Nguyễn Thị L A với bị đơn Anh Nguyễn K. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của Chị Nguyễn Thị L A: Cho Chị Nguyễn Thị L A và anh Nguyễn K được ly hôn.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Khắc H, sinh ngày 25/12/2015 cho chị L A trực tiếp nuôi dưỡng, anh K không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh K có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản.
3. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị L A phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2015/0008217 ngày 24/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ L; Chị Nguyễn Thị L A đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Anh Nguyễn K phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0001789 ngày 17/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ L; anh K đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 29/2017/HNGĐ-PT ngày 19/12/2017 về xin ly hôn
Số hiệu: | 29/2017/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về