Bản án 291/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 291/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 302/2019/HSST ngày 13/11/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 303/2019/QĐXXST-HS ngày 15/11/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Đình M, sinh năm 1981 tại Hà Nội; nơi đăng ký HKTT: số 29, Tổ 1, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Đ và bà Nguyễn Thị N; vợ là Nguyễn Hồng N (đã chết), có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Năm 2015 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm số 1 – Ba Vì, theo Quyết định số 1460 ngày 12/02/2015 của UBND quận Hà Đông: bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/5/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 31/5/2019, Nguyễn Đình M nhận được điện thoại của bạn mới quen tên Cường gọi từ số điện thoại 0569024001 đến số điện thoại 0972653697 của M hỏi mua 02gam ma túy tổng hợp dạng “đá”, M đồng ý bán và thỏa thuận 02gam ma túy “đá” có giá là 1.160.000 đồng, hẹn giao nhận tại đường Phùng Khoang, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Sau khi thỏa thuận với Cường xong, M gọi điện thoại cho Thắng là người đã bán ma túy cho M trước đó, hỏi mua 02gam ma túy “đá” và bảo người đó mang đến cửa nhà M tại số 29 tập thể Cao đẳng xây dựng số 1, tổ 15 phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Khoảng 10 phút sau, người đàn ông đó dến cửa nhà M, bán cho M 01 gói nilon bên trong đựng ma túy “đá” với giá 960.000 đồng. M mang gói ma túy vừa mua vào nhà chia thành 05 gói nilon nhỏ, sau đó điện thoại cho Cường đến địa điểm đã hẹn để lấy ma túy. M dùng băng dính đen dán 05 gói ma túy vào đũng quần bò đang mặc, sau đó đi bộ đến trước cửa Nhà 1 đường Phùng Khoang, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để bán ma túy cho Cường. Khi đang giao dịch mua bán ma túy với Cường thì bị Tổ công tác Công an phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội phát hiện. Khi phát hiện thấy Tổ công tác Công an phường Đại Mỗ thì Cường đã bỏ chạy thoát, trong lúc bỏ chạy có ném lại số tiền 300.000 đồng, còn M bị bắt quả tang cùng vật chứng gồm: 05 gói nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy, 01 điện thoại di động Nokia nhãn hiệu 105 màu xanh – đen, gắn sim số 0972653697, 01 điện thoại di động Nokia màu đỏ không có sim và số 03 tờ tiền VNĐ có mệnh giá 100.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 3510 ngày 06/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: tinh thể màu trắng trong 05 gói nilon đều là ma túy loại Methaphetamine, tổng khối lượng là 2,366gam.

Đối với người đàn ông tên Thắng bán ma túy cho cho M và Cường là người hỏi mua ma túy của M, quá trình điều tra không xác định được lai lịch cụ thể, nên không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Số thuê bao 0569024001 mà người đàn ông tên Cường dùng để gọi cho M hỏi mua ma túy, quá trình điều tra xác định là thuê bao trả trước, đăng ký chủ thuê bao là chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1994, HKTT: S, H, Hà Nội. Chị T khai không đăng ký sử dụng số điện thoại nêu trên và cũng không biết ai sử dụng số điện thoại đó.

Bản Cáo trạng số 311/CT-VKSNTL ngày 07/11/2019 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Đình M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng và hai chiếc điện thoại bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại không có sim đã thu giữ của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 09 giờ 20 phút, ngày 31/5/2019, tại trước cửa Nhà 1 đường Phùng Khoang, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Đình M có hành vi cất giấu 2,366 gam ma túy loại Methaphetamin với mục đích để bán cho người khác. Khi Bị cáo M đang giao dịch mua bán thì bị Tổ công tác Công an phường Đại Mỗ phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã từng bị xử lý hành chính, tuy đã hết thời hạn và được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nhưng không thể coi bị cáo là người có nhân thân tốt. Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì có đủ căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung, với mức án như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[4] Xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp: tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia nhãn hiệu 105 màu xanh – đen gắn sim số 0972653697, 01 điện thoại di động Nokia mầu đen gắn sim số 0367746764 và số 0359900820, 01 điện thoại di động Nokia màu đỏ không có sim và 300.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 46, Điểm b Khoản 1 Điều 47, Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm a Khoản 1 Điều 46, Điểm b Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 và các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý" - Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình M 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/5/2019.

- Xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên và Nguyễn Đình M; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia nhãn hiệu 105 màu xanh – đen gắn sim số 0972653697, 01 điện thoại di động Nokia mầu đen gắn sim số 0367746764 và số 0359900820, 01 điện thoại di động Nokia màu đỏ không có sim và 300.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo Biên bản giao vật chứng số 33 ngày 11/11/2019 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 11/11/2019.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 291/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:291/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về