Bản án 290/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 290/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Vào các ngày 04 và 10 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 285/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 308/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hồng N, sinh năm 1969. Tại: C. Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã H, huyện N, tỉnh Q; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Cha Nguyễn Hồng X (đã chết) và bà Nông Thị D; vợ Nguyễn Thị Q; bị cáo có 03 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/7/2020 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Phúc L, sinh năm 1995. Địa chỉ: Xã T, huyện H, tỉnh B, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 21/7/2020, ông Hoàng Phúc L, sinh năm 1995 điều khiển xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen biển số 86B5-308.XX đi đến phòng trọ số 46, đường N15, khu phố 1, phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương của ông Lê Thanh T, sinh năm 1988 để chơi. Khi đến nơi, ông L dựng xe bên lề đường phía trước dãy trọ rồi vào bên trong phòng anh T. Khoảng 05 phút sau, anh L quay ra thì phát hiện xe mô tô hiệu Honda Winner X, màu đỏ bạc đen biển số 86B5-308.XX đã bị lấy trộm nên ông L đến Công an phường Phú Tân để trình báo sự việc. Nhận được tố giác về tội phạm của ông L, Công an phường Phú Tân thông báo cho Công an các phường trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một biết để phối hợp truy tìm chiếc xe trên.

Đến khoảng 16 giờ 30 cùng ngày 21/7/2020, Tổ tuần tra thuộc Công an phường Chánh Mỹ trên đường tuần tra phát hiện Nguyễn Hồng N đang điều xe mô tô hiệu Honda Winner X màu màu đỏ bạc đen biển số 86B5-308.XX nên mời N về trụ sở Công an phường Chánh Mỹ để làm việc. Tại Công an phường Chánh Mỹ, N khai nhận do không có xe mô tô để làm phương tiện đi lại nên buổi trưa cùng ngày 21/7/2020 N đã lên mạng xã hội để tìm người bán xe mô tô giá rẻ để mua sử dụng thì biết một tài khoản tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) hẹn đến khu vực khu phố 3, phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương để bán xe mô tô tay côn, không có giấy tờ với giá 12.500.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, N đến điểm hẹn tại khu phố 3, phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thi gặp hai người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) kêu bán xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen biển số 86B5-308.XX với giá 12.500.000 đồng. Khi N nghe giá bán và nhìn thấy xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen, biển số 86B5-308.XX thì N nhận thức được là xe này do hai người thanh niên phạm tội mà có vì giá trị thực tế của chiếc xe mô tô tương tự trên thị trường có giá khoảng 46.000.000 đồng nhưng hai người thanh niên đó chỉ bán cho N với giá 12.500.000 đồng đồng thời không có giấy đăng ký xe mô tô và hai bên cũng không có làm giấy tờ mua bán. Tuy nhiên vì mục đích vụ lợi cá nhân nên N vẫn đồng ý mua chiếc mô tô nêu trên. Sau khi mua xe, N điều khiển xe chạy đến khu vực phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì bị Tổ tuần tra Công an phường Chánh Mỹ phát hiện và thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một biết để bắt giữ N và thu giữ vật chứng là chiếc xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen, biển số 86B5-308.XX và 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen IMEI 35331094784226/01.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 158/KLTS-TTHS ngày 28/7/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen biển số 86B5- 308.XX trị giá 35.000.000 (ba mươi lăm triệu) đồng.

Quá trình điều tra xác định:

- Xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen biển số 86B5-308.XX là tài sản của ông Hoàng Phúc L nên ngày 28/7/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tiến hành trả lại cho ông Lợi theo Quyết định xử lý vật chứng số 117 ngày 28/7/2020. Hiện ông L không có yêu cầu gì khác đối với Nguyễn Hồng N.

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen có số IMEI 35331094784226/01 là tài sản cá nhân của Nguyễn Hồng N, không liên quan đến hành vi phạm tội của N nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Cơ quan thi hành án dân sự Thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trả lại cho N.

- Đối với 02 (hai) đối tượng nam thanh niên bán xe mô tô cho N, quá trình điều tra N khai nhận không biết rõ nhân thân, lai lịch của cả hai đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định tách vụ án và Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án trộm cắp tài sản để khi nào có căn cứ sẽ phục hồi điều tra và xử lý sau.

Cáo trạng số 289/CT-VKS-HS ngày 26/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Hồng N về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hồng N đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng N mức hình phạt từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Hoàng Phúc L không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng N 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen (IMEI 35331094784226/01) là tài sản cá nhân của Nguyên không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo Nguyễn Hồng N không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hồng N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Hồng N mặc dù biết được xe mô tô hiệu Honda Winner X màu đỏ bạc đen biển số 86B5-308.XX trị giá 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng) của ông Hoàng Phúc L là do hai nam thanh niên (không xác định rõ nhân thân, lai lịch) trộm cắp mà có nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân nên N đã đồng ý mua xe mô tô trên với giá 12.500.000đ (thấp hơn giá trị thực tế của xe) để sử dụng làm phương tiện đi lại nên hành vi mà bị cáo N thực hiện đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, để răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời cũng nhằm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi và giao trả cho bị hại, bị cáo xuất thân trong gia đình có truyền thống cách mạng, bà Nông Thị D là mẹ bị cáo được tặng thưởng huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng 3. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà Hội đồng xét xử áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối chiếu với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ vào nhân thân bị cáo, xét mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ông Hoàng Phúc L không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen (IMEI 35331094784226/01) là tài sản cá nhân của Nguyên không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử tuyên trả cho bị cáo.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 136, 260 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng N phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

1./ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng N 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 21/7/2020.

2./ Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét, giải quyết.

3./ Về vật chứng của vụ án tuyên: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng N 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung J7 màu đen (IMEI 35331094784226/01) (không kiểm tra chi tiết tình trạng hoạt động)

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 019.21 ngày 26/10/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4./ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hồng N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 290/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:290/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về