TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 290/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ LY HÔN GIỮA ANH C VÀ CHỊ N
Ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 251/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn C, sinh năm 1982. địa chỉ: ấp 6, xã Long Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. (Anh C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).
2. Bị đơn: Chị Lê Thị Kim N, sinh năm 1984; địa chỉ: số nhà 55/2 ấp Quí Đức A, xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/5/2020, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn anh Trần Văn C trình bày:
Anh và chị Lê Thị Kim N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Long Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/7/2005. Khi sống chung anh và chị N có 02 người con chung tên Trần Huy B và Trần Duy H.
Khoảng từ năm 2012, hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên anh và chị N thường xuyên cải nhau, sau đó chị N tự ý bỏ anh và con đi về nhà mẹ ruột ở xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú sống cho đến nay. Anh và chị N không còn chung sống với nhau năm 2012 cho đến nay. Anh cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị N, anh không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.
Về con chung: Anh yêu cầu được nuôi các con Trần Huy B, sinh ngày 17/11/2004 và Trần Duy H, sinh ngày 17/11/2004. Anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con con chung Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình tố tụng chị Lê Thị Kim N vắng mặt nên không có lời trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bị đơn Lê Thị Kim N không đến Tòa để tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị:
Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Văn C. Anh C không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên đề nghị không xem xét.
Về con chung: Anh C được trực tiếp nuôi con chung là Trần Huy B, sinh ngày 17/11/2004 và cháu Trần Duy H, sinh ngày 17/11/2004 (theo nguyện vọng cháu Duy B và cháu Duy H; ghi nhận việc anh C không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Anh C trình bày không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.
Về nợ chung: Anh C trình bày không có nợ chung nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Căn cứ vào đơn xin ly hôn của anh Trần Văn C thì vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp là Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Chị Lê Thị Kim N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng chị N vẫn không có mặt. Việc vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt chị N là đúng theo quy định Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn anh Trần Văn C có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh C theo qui định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về hôn nhân: Anh Trần Văn C và chị Lê Thị Kim N kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Cả hai đều có đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.
Xét yêu cầu ly hôn của anh C Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi kết hôn anh C và chị N có thời gian sống chung hạnh phúc không lâu thì đã phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống thường xuyên cãi nhau, nên anh C và chị N đã sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Theo biên bản xác minh ngày 08/6/2020 của Tòa án đối với bà Lê Thị Đẹp, sinh năm 1967 là mẹ ruột chị Lê Thị Kim N thì bà Đẹp cho biết là giữa anh C và chị N có mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân nên đã không còn sống chung. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa anh C và chị N là do anh C và chị N bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau nên chị N không sống chung với anh C nữa mà bỏ về sống chung với bà tại xã Quới Điền cho đến nay. Nhiều lần bà nhận được Thông báo, giấy triệu tập của Tòa án đối với chị N. Bà có chuyển giao lại cho chị N đầy đủ, đúng thời gian quy định như đã cam kết nhưng chị N không đến Tòa án theo nội dung Tòa án đã thông báo và triệu tập. Điều đó chứng tỏ chị N không còn tha thiết tình cảm vợ chồng với anh C, không muốn vợ chồng hòa giải để đoàn tụ với nhau. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa anh C và chị N đã mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh C yêu cầu được ly hôn với chị N là có căn cứ. Phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Anh C không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về con chung: Anh C và chị N có 02 con chung là cháu Trần Huy B, sinh ngày 17/11/2004 và cháu Trần Duy H, sinh ngày 17/11/2004. Anh C có yêu cầu được trực tiếp nuôi các con chung, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ lúc anh C và chị N sống ly thân cho đến nay, anh C là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huy B và cháu Duy H và đồng thời cháu Huy Bh và cháu Duy H có nguyện vọng muốn sống với anh C. Do đó, việc anh C có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận việc anh C không yêu cầu nghĩa vụ cấp cấp đưỡng nuôi con chung.
[5] Về tài sản chung: Anh C trình bày không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về nợ chung: Anh C trình bày không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Anh C phải nộp án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[ 8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, Điều 147, 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Văn C. Anh C được ly hôn với chị Lê Thị Kim N.
Anh C không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.
2. Về con chung: Anh C được trực tiếp nuôi các con chung là Trần Huy B, sinh ngày 17/11/2004 và cháu Trần Duy H, sinh ngày 17/11/2004 (theo nguyện vọng cháu Huy B và cháu Duy H). Ghi nhận việc anh C không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, chị N vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở vì lợi ích của con, cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có căn cứ 3. Về tài sản chung: Anh C trình bày không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về nợ chung: Anh C trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí hôn nhân và gia đình: Anh Trần Văn C phải nộp số tiền là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0011616 ngày 18 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 290/2020/HNGĐ-ST ngày 18/09/2020 về ly hôn giữa anh C và chị N
Số hiệu: | 290/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về