TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 290/2019/HS-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 24 tháng 06 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 315/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 06 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 328/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 06 năm 2019 đối với bị cáo:
Ma Văn Tr- sinh ngày 09/01/1986, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT: xóm LM, xã YN, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên, nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Ma Văn S, sinh năm 1963 và bà: Ma Thị S1, sinh năm 1963, gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ thứ nhất: Nguyễn Thị Trang Nh, sinh năm 1989, ly hôn năm 2015, giữa bị cáo và chị Nh có 01 con chung sinh năm 2009; Vợ thứ 2: Vũ Thị H, sinh năm 1991, có 01 con chung sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: 01- Tại bản án số 112/2010/HSST ngày 29/10/2010 Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo đã thi hành xong bản án.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2019 cho đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.
*Người chứng kiến: Anh Đào Ngọc Th, sinh năm 1981 ( vắng mặt)
Trú tại: tổ X, phường CH, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/3/2019 Ma Văn Tr đi xe ôm từ đường tròn ĐQ, thành phố Thái Nguyên đến khu vực tổ Y, phường CH, TPTN tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại dây Trường gặp 01 người đàn ông không quen biết, hỏi mua 200.000 đồng ma túy được người đàn ông đưa 01 gói giấy bạc màu vàng, Trường cầm trong lòng bàn tay phải. Hồi 13 giờ 30 phút cùng ngày khi Tr đang tìm nơi để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường CH kiểm tra, bắt giữ tại tổ Y, phường CH, TPTN. Quá trình kiểm tra tổ công tác đã thu trên tay Tr 01 gói giấy bạc màu vàng Tr khai là Heroine, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong theo quy định. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chât bôt mau trăng thu giữ của Ma Văn Tr có khối lượng 0,174 gam, niêm phong ký hiệu T gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 597/KL-PC09 ngày 05/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,174 gam.
Bản cáo trạng số 318/CT-VKSTPTN ngày 29 tháng 05 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Ma Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ma Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Ma Văn Tr từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu T; Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là lao động chính, vợ bị cáo không có nghề nghiệp, con còn nhỏ do đó đề nghị hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Ma Văn Tr tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng được thu của Ma Văn Tr là Heroine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy hồi 12 giờ 30 phút ngày 28/03/2019 Ma Văn Tr đi xe ôm đến khu vực tổ Y, phường CH, TPTN mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng với mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Heroine Tr tìm chỗ sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường CH, TPTN kiểm tra bắt giữ, thu giữ vật chứng, cân kiểm tra số chất bột màu trắng xác định khối lượng 0,174 gam, giám định là Heroine.
[3] Với hành vi mua 0,174 gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của bị cáo Ma Văn Tr đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.
[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa bị cáo còn khai báo quanh co về địa điểm mua ma túy cũng như khai báo về người đã bán ma túy cho bị cáo tuy nhiên bị cáo thừa nhận việc mua ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân nên bị bắt, do đó Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện, đã bị Tòa án nhân dân huyện PL xét xử về tội Trộm cắp tài sản, đến nay được coi là không có án tích, tuy nhiên sau khi ra trại bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội do đó Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Xét bị cáo là đối tượng nghiện, mua ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Xử lý vật chứng: Đối với bì niêm phong T trong có Heroine cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[9] Về nguồn gốc số Heroine Ma Văn Tr khai mua của một người không quen biết, tuy nhiên quá trình điều tra để xác minh chưa xác định được lai lịch, địa chỉ, nên chưa có căn cứ xem xét, Hội đồng xét xử kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ.
[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy có phần nghiêm khắc
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ma Văn Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"
[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Ma Văn Tr 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2019.
[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo Ma Văn Tr 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án
[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu T.
(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận số 371 lập ngày 17/6/2019).
[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Ma Văn Tr phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm
[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo Ma Văn Tr có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 290/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 290/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về