Bản án 289/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 289/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 276/2020/HS-ST ngày 02 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 289/2020/HSST-QĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Xuân Ch, sinh năm 1978 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn Th S, xã Th T, huyện Th H, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Khu phố T H, phường T B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bốc xếp; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1962 và bà Mai Thị B, sinh năm 1968; bị cáo có 04 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh 1986; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Th, sinh năm 1986, có 01 con ruột, sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Quyết định bão lĩnh; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Vũ Văn S, sinh năm 1986 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn Th B, xã Th H, huyện Tr S, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Đường N9, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Văn H (đã chết) và bà Lê Thị Tr, sinh năm 1953; bị cáo có 03 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1982; bị cáo có vợ tên Thiều Thị C, sinh năm 1986, có 02 con ruột, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

3. Cao Văn Ng, sinh năm 1979 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn Th S, xã Th T, huyện Th H, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số 177/13 đường Ng C Tr, khu phố Đ B, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Cao Văn Ng (đã chết) và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1951; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 1984; bị cáo có vợ tên Lê Thị Th, sinh năm 1988 (đã ly hôn), có 01 con ruột, sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 25/4/2016, bị Công an phường Đ H, thị xã D A (nay là thành phố D A), tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, theo Quyết định số 116/QĐ-XPHC; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Nguyễn Tôn T, sinh năm 1985 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Số 253F/2 khu phố 1B, phường A Ph, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Tôn Ng, sinh năm 1958 và bà Mai Thị M, sinh năm 1958; bị cáo có 04 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1988; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1987; có 02 con ruột, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác - Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn D; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/3/2020, Nguyễn Xuân Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T đến quán cà phê vỉa hè tại khu phố Đ Th, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương để uống cà phê. Lúc này cả nhóm rủ nhau đánh bài tiến lên thắng thua bằng tiền thì tất cả đồng ý. Lúc này, Chung cầm 01 bộ bài tây 52 lá từ quán cà phê ra rồi tất cả đi đến bải đất trống thuộc đường N9, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương đánh bài. Mỗi ván cược từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Cả nhóm chơi đến khoảng 15 giờ cùng ngày thì bị Công an phường T Đ H phát hiện lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang Nguyễn Văn Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T đang đánh bạc thắng thua bằng tiền. Thu giữ tang 7.500.000 đồng và 01 bộ bài tây 52 lá.

Quá trình điều tra, xác định.

- Nguyễn Xuân Ch mang theo 2.500.000 đồng và sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, quá trình đánh bạc Ch thắng 500.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trong người 500.000 đồng và trên chiếu bạc 2.500.000 đồng.

- Vũ Văn S mang theo và sử dụng 2.500.000 đồng để đánh bạc, quá trình đánh bạc S thắng 100.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 2.600.000 đồng.

- Cao Văn Ng mang theo 3.500.000 đồng và sử dụng 1.500.000 đồng để đánh bạc, quá trình đánh bạc Ng thua 300.000 đồng, khi bị Công an bắt thu giữ trong người 2.000.000 đồng và trên chiếu bạc 1.200.000 đồng.

- Nguyễn Tôn T mang theo và sử dụng 1.500.000 đồng để đánh bạc, quá trình đánh bạc T thua 300.000 đồng, khi bị Công an bắt thu giữ trên chiếu bạc 1.200.000 đồng.

Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 7.500.000 đồng.

Đối với 2.000.000 đồng của Cao Văn Ng, 500.000 đồng của Nguyễn Xuân Ch không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại số tiền trên cho Ng và Ch.

Tại Cáo trạng số: 312/CT-VKS ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Xuân Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T, mỗi bị cáo từ 06 tháng đến 08 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 7.500.000 đồng mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước - Đối với 01 (một) bộ bài tây 52 lá là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng đồng thời các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo; người làm chứng; biên bản biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và các chứng cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 18/3/2020, tại bải đất trống thuộc đường N9, khu phố Đ Th, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Xuân Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh bài tiến lên thua bằng tiền, mỗi ván cược từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc là 7.500.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi của các bị cáo đánh bạc dưới hình thức đánh bài tiến lên thắng thua bằng tiền, tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc 7.500.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 312/CT-VKS ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng, nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Xét đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo là người trực tiếp tham gia đánh bài tiến lên thắng thua bằng tiền, bị cáo Chung là người đi mua bài về cho cả nhóm cùng đánh.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng . Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người lao động.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính:

- Xét bị cáo Cao Văn Ng phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú và làm việc rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt và người lao động, hơn nữa trong thời gian tại ngoại các bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình cải tạo không giam giữ đối với bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú đồng thời bị cáo là người lao động có thu nhập thấp, nên không áp dụng quy định khấu trừ một phần thu nhập khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nên cần hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 76/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố D A, tỉnh Bình Dương đối với Cao Văn Ng.

- Xét các bị cáo Nguyễn Xuân Ch, Nguyễn Tôn T và Vũ Văn S phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc ít, nhân thân tốt và người lao động, hơn nữa trong thời gian tại ngoại các bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương, thời gian tạm giam, tạm giữ cũng đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo. Do áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo nên cần hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 77, 78/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Nguyễn Tôn T, Vũ Văn S và Quyết định bảo lĩnh số:

35/2020/HSST-QĐBL ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Nguyễn Xuân Ch.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét thấy hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền của bị cáo Cao Văn N gây mất trật tự tại địa phương, bị cáo đã từng xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc đã được xóa đồng thời để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Ngự. Đối với các bị cáo Nguyễn Xuân Ch, Nguyễn Tôn T và Vũ Văn S do áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Xét số tiền 7.500.000 đồng, các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước - Xét 01 (một) bộ bài tây 52 lá, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Đối với 2.000.000 đồng của Cao Văn Ng, 500.000 đồng của Nguyễn Văn Ch không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại số tiền trên cho Ng và Ch là đúng theo quy định của pháp luật.

[12] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Xuân Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T phạm tội “Đánh bạc”.

1.1 Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; Điều 36; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Cao Văn Ng 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 18/3/2020 đến ngày 27/3/2020. Bị cáo còn phải tiếp tục chấp hành 08 (tám) tháng 03 (ba) ngày cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương được Bản án và Quyết định thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Cao Văn Ng 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

1.2 Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Ch 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tôn T 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn S 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

Hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 76, 77, 78/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 02 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và Quyết định bảo lĩnh số: 35/2020/HSST-QĐBL ngày 02 tháng 7 năm 2020.

Trường hợp bị cáo Cao Văn Ng thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 100 Luật Thi hành án Hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 7.500.000 đồng, theo Biên lai thu tiền số 01611 ngày 14/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Tich thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Xuân Ch, Vũ Văn S, Cao Văn Ng và Nguyễn Tôn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 289/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:289/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về