Bản án 289/2018/HSST ngày 15/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 289/2018/HSST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 365/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 294/2018/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 11 năm 2018 đối với  bị cáo:

Nguyễn  Bá  N,  Sinh  năm  1990  tại  Thanh  Hóa;  Nơi  ĐKHKTT  và  chỗ  ở: phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá T ( đã chết) và bà Nguyễn Thị P; có vợ: Trương Thị T2 (đã ly hôn) và  có 01 con sinh năm 2013; Tiền án: không; tiền sự: không. Bị caó bị tạm giữ từ ngày 27/7/2018, tạm giam ngày 06/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 22h 15’ngày 27/7/2018, tổ công tác Công an phường Đ thành phố T, đang làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa hàng V đường L, phường Đ, thành phố T, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Bá N đang cất giữ trong người 01 gói nilon màu trắng có viền xanh, kích thước khoảng (2x3)cm, N đã tự giác giao nộp và khai nhận đó là 01 gói ma túy đá, N khai mua của một người đàn ông không quen biết vào lúc 21giờ 45 phút tại ngã tư gần bờ sông cầu L thuộc phường Đ, thành phố T với giá 350.000 đồng với mục đích để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản và thu giữ vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số 1600/MT-PC54 ngày 31/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh kết luận:

Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,369g loại Methamphetamine ( BL: 27).

Tại bản cáo trạng số 262/ CT -VKS  ngày 16/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Nguyễn Bá N về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;  Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017,  đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Đề nghị áp dụng khoản 1, điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu Sony màu đen đã qua sử dụng đã bị vỡ màn hình, Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, một lần nữa bị cáo khai nhận: Khoảng 21 giờ 45’ngày m27/7/2018 bị cáo đã mua 01 gói ma túy đá với giá 350.000 đồng của một người đàn ông không quen biết để sử dụng. Khi đi đến đoạn đường L, phường Đ, thành phố T thì bị tổ công tác Công an phường Đ, thành phố T kiểm tra phát hiện, bắt quả tang và thu giữ gói ma túy. Bị cáo thừa nhận gói ma túy qua giám định có tổng khối lượng là 0,369g loại Methamphetamine là thu của bị cáo .

[3]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015. Vì vậy VKSND thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo, cơ quan điều tra khởi tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Tệ nạn và tội phạm về ma túy là hiểm họa cho toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến kinh tế, đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác, là tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội.

[5]. Với tính chất,  mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, việc cách ly bị cáo khỏi  xã hội một thời gian là cần thiết, như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với  bị cáo và  phòng ngừa chung cho xã hội.  Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, nên khi xem xét hình phạt đối với bị cáo cũng cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Đối với vật chứng:  Đối với chiếc Điện thoại di động  hiệu Sony màu đen đã qua sử dụng đã bị vỡ màn hình thu của bị cáo, bị cáo không dùng vào việc phạm tội, vì vậy cần trả cho bị cáo. Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá là vật cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy. Áp dụng khoản 1, điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS

[7].  Bị  cáo  phải  chịu  án  phí  HSST  theo  quy  định  tại  khoản  2  Điều  136 BLTTHS  và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017; khoản 1, điểm a,c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bá N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Bá N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 27/7/2018 .

Về vật chứng:  Trả lại cho bị cáo chiếc Điện thoại di động  hiệu Sony màu đen đã qua sử dụng đã bị vỡ màn hình trước và sau.  Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì được đóng dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. (Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 33 /THA ngày 12/11/2018  giữa  Công an  thành  phố Thanh Hóa  với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo  có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 289/2018/HSST ngày 15/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:289/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về