Bản án 287/2020/HSST ngày 06/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 287/2020/HSST NGÀY 06/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 236/2020/HSST, ngày 04/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3239/2020/QĐXXST- HS, ngày 26/6/2020 đối với các bị cáo:

1. Dương Quốc T; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 11PB Ngô Sỹ Liên, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Hoàng L và bà Dương Thị M; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ là bà Trần Thị Kiều O và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2014); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Ngày 07/4/2010, Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 25/2010/HSST.

+ Ngày 24/02/2012, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 22/2012/HSST.

Tạm giữ, tạm giam ngày: 08/9/2019 - Có mặt.

2. Lê Thị Hoàng N; Giới tính: Nữ; Sinh năm: 1984 tại thành phố Cần Thơ; Thường trú: 405 đường 30/4, tổ 18, phường Z, quận Z, Thành phố Cần Thơ; Chỗ ở: 421 đường 30/4, tổ 19, phường Z, quận Z, Thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn C và bà Trần Thị B; Hoàn cảnh gia đình: Có chồng là ông Cao Văn H và 01 con (sinh năm 2008); Tiền án, tiền sự: Không;

Tạm giữ, tạm giam ngày: 08/9/2019 - Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Lê Thị Trâm A; Sinh năm: 2002 Thường trú: 405 đường 30/4, ấp Long Thanh 1, phường Z, quận Z, Thành phố Cần Thơ - Vắng mặt.

+ Công ty TNHH TM Quang Phương Địa chỉ: 375 An Dương Vương, Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh - Vắng mặt.

- Người bào chữa:

+ Ông Nguyễn Thành Chung là luật sư của Công ty luật TNHH Đại Việt thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh báo chữa cho bị cáo Dương Quốc T - Có mặt.

+ Ông Đặng Quốc Hưng là luật sư của Công ty luật TNHH Đại Việt thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh báo chữa cho bị cáo Lê Thị Hoàng N - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt N sau:

Lúc 04 giờ 40 phút, ngày 08/9/2019, Tổ tuần tra 363 của Công an Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Dương Quốc T điều khiển xe gắn máy không gắn biển số chở theo Lê Thị Hoàng N và Lê Thị Trâm A chạy đến dừng xe trước nhà xe khách Văn Lang, số 361 đường Hùng Vương, Phường 9, Quận 5 và đưa cho N 01 túi ny lon màu đen có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Thấy lực lượng Công an kiểm tra N hoảng sợ cầm túi ny lon màu đen bỏ chạy vào trong nhà xe khách để lên bàn tiếp tân thì bị tổ tuần tra 363 phát hiện thu giữ, đồng thời giải giao cả 3 đối tượng Dương Quốc T, Lê Thị Hoàng N và Lê Thị Trâm A cùng vật chứng về Công an Phường 9, Quận 5 để làm rõ. Tại đây, N mở túi ny lon màu đen ra để kiểm tra bên trong có chứa 04 gói ny lon, qua giám định là ma túy, có khối lượng 74,8102 gam, loại Heroin (Bản kết luận giám định số 1734/KLGĐ-H ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Quá trình điều tra Dương Quốc T khai nhận có quen biết với một người bạn tên H (tên thường gọi là Đậu Đen) sinh sống tại Cần Thơ vào khoảng năm 2016 và biết H nghiện Heroin. Khoảng 23 giờ, ngày 07/8/2019, T đang ngủ tại nhà trọ của bạn T thuê ở tại số 137/3/41/16 Cao Xuân Dục, Phường X, Quận Y, thì H gọi điện thoại cho T nói khi nào vợ của H lên đến Thành phố Hồ Chí Minh nhờ T đón giúp do vợ H không rành đường, Đến khoảng 02 giờ, ngày 08/9/2019, Lê Thị Hoàng N là vợ của H gọi điện thoại cho T nói đang trên đường đi, khi nào đến Thành phố Hồ Chí Minh nhờ T đến đón giúp, T đồng ý.

Đến khoảng 04 giờ sáng cùng ngày, N gọi điện thoại cho T nói đã đến Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, nhờ T đến đón. T sử dụng xe gắn máy hiệu Honda, loại Sonic không gắn biển số của T chạy đến Bệnh viện Đại học Y dược gặp và đón N cùng cháu của N là Lê Thị Trâm A về nhà thuê ở của bạn T số 137/3/41/16 Cao Xuân Dục, Phường X, Quận Y để nghỉ ngơi. Tại đây, do Trâm A đi xe bị mệt nằm nghỉ trong phòng, T và N ra trước cửa nhà trọ nói chuyện. N đưa cho T 15.000.000 đồng và nói T đi mua hàng (Heroin) giúp cho H để N ra xe về luôn. T cầm tiền và sử dụng xe gắn máy đi đến Bến xe Quận 8 để mua Heroin. Tại đây, T gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi (không rõ lai lịch) mua một gói Heroin chứa trong một túi ny lon màu đen với giá 14.000.000 đồng. Còn 1.000.000 đồng T giữ lại để trừ vào tiền đổ xăng, đi đón N và đi mua ma túy cho N. Sau khi mua được Heroine T cầm trên tay rồi chạy về nhà trọ chở N và Trâm A ra nhà xe khách Văn Lang để mua vé xe về Cần Thơ. Khi đến trước nhà xe Văn Lang, T lấy túi ny lon màu đen có chứa Heroin treo trên kính chiếu hậu phía bên trái xe gắn máy đưa cho N. N cầm lấy đi vào trong nhà xe thì lực lượng Công an đến kiểm tra, phát hiện bắt giữ N đã nêu trên.

Lê Thị Hoàng N khai nhận phù hợp với lời khai của Dương Quốc T. Cụ thể: khoảng 21 giờ, ngày 07/9/2019, N có nói chuyện với chồng là Cao Văn H và biết H định đi Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy về để sử dụng vì Heroine mua ở Cần Thơ giá cao, không mua được nhiều và mau hết. Do sợ H là người nghiện đi mua ma túy dễ bị Công an phát hiện nên N nói với H để N đi Thành phố Hồ Chí Minh đón chị ruột của N tại sân bay Tân Sơn Nhất và sẽ mua ma túy cho H. H đồng ý và nói để H nhờ bạn của H ở Thành phố Hồ Chí Minh tên T (tên thường gọi là Hải) đón N vì N không rành đường, rồi H lưu số điện thoại của T vào điện thoại của N để liên lạc. Sau đó, N đi vào phòng lấy 15.000.000 đồng tiền của N (số tiền này là của em của N ở nước ngoài gửi về cho N tiêu xài) để đi mua Heroin cho H sử dụng và gọi điện thoại rủ cháu gái là Lê Thị Trâm A cùng đi Nng không nói cho Trâm A biết là đi mua Heroin cho H, Trâm A đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, N cùng Trâm A đón xe khách của nhà xe Văn Lang để lên Thành phố Hồ Chí Minh. Trên đường đi, khoảng 02 giờ sáng ngày 08/9/2019, N gọi điện thoại cho T theo số điện thoại của H cho, N giới thiệu với T là vợ của Đậu Đen nhờ T đón giúp khi N đến Thành phố Hồ Chí Minh. Đến khoảng 04 giờ sáng cùng ngày, N và Trâm A xuống xe tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh rồi N gọi điện thoại cho T đến đón. Khoảng 15 phút sau, T chạy xe gắn máy đến gặp N, vì Trâm A thấy mệt nên N nói T chở về chổ ở của T để Trâm A nghỉ ngơi. Tại đây, N đưa cho T 15.000.000 đồng để T đi mua Heroine rồi chở N và Trâm A ra nhà xe để về Cần Thơ thì bị bắt quả tang cùng vất chứng N đã nêu trên.

1/ Thu giữ của Dương Quốc T:

- 01 (một) áo khoác màu đen.

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia;

- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda, loại Sonic không gắn biển số; Số máy: KB11E1220913; Số khung: MHKB1119KK221632.

- Số tiền: 15.000.000 đồng.

2/ Thu giữ của Lê Thị Hoàng N:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1734/19 bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 (một) áo khoác màu đen.

- 01 (một) điện thoại di động màu xanh hiệu Nokia 1280.

3/ Thu giữ của Lê Thị Trâm A:

- 01 (một) áo khoác màu đen.

- 01 (một) điện thoại di động Iphone.

Bản cáo trạng số: 175/CTr-VKS-P1, ngày 28/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Bị cáo Dương Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lê Thị Hoàng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá, tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Quốc T từ 16 (mười sáu) năm tù đến 18 (mười tám) năm tù.

Phạt bị cáo Dương Quốc T số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Hoàng N từ 10 (mười) năm tù đến 12 (mười hai) năm tù.

Về xử lý tang vật:

Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý tang vật theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Thành Chung bào chữa cho bị cáo Dương Quốc T thống nhất với đại diện Viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt. Trong vụ án này bị cáo T chỉ mua giúp ma túy cho N, bị cáo có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có 02 con nhỏ, cha bị cáo có nhiều bệnh nên luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Luật sư Đặng Quốc Hưng bào chữa cho bị cáo Lê Thị Hoàng N không tranh luận về tội danh và khung hình phạt. Bị cáo N có trình độ học vấn thấp, lấy phải người chồng nghiện ma túy, bị cáo không có động cơ xấu mà chỉ xuất phát từ tình cảm của người vợ dành cho người chồng nên mới phạm tội khi thấy chồng vật vã lúc lên cơn nghiện, chính bị cáo N cũng là nạn nhân của tác hại ma túy do ma túy gây ra. Ngoài ra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hố cải, có nhân thân tốt, là lao động chính trong gia đình, có con nhỏ và cha mẹ chồng già yếu. Vì vậy, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo N mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát tranh luận: Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị để xét xử các bị cáo là đã xem xét hết hành vi, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên vẫn giữa nguyên quan điểm của mình.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các luật sư, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định N sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Dương Quốc T và bị cáo Lê Thị Hoàng N khai nhận về hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra đúng N nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, vật chứng thu giữ và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án N các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản tự khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 04 giờ 40 phút, ngày 08/9/2019, tại nhà xe khách Văn Lang số 361 Hùng Vương, Phường 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ tuần tra 363 của Công an Quận 5 phát hiện Dương Quốc T điều khiển xe gắn máy chở theo Lê Thị Hoàng N và Lê Thị Trâm A có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Thấy lực lượng Công an kiểm tra N hoảng sợ cầm túi ny lon màu đen bỏ chạy vào trong nhà xe khách để lên bàn tiếp tân thì bị bắt giữ. Kiểm tra bên trong có chứa 04 gói ny lon, qua giám định là ma túy, số ma túy này do Dương Quốc T mua cho Cao Văn H, còn Lê Thị Hoàng N là vợ của Cao Văn H từ Cần Thơ lên Thành phố Hồ Chí Minh nhận ma túy do Dương Quốc T mua để đưa về cho H sử dụng. Do đó, đã có đầy đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Dương Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và bị cáo Lê Thị Hoàng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo Bản kết luận giám định số: 1734/KLGĐ-H ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì 04 gói ny lon, qua giám định là ma túy, có khối lượng 74,8102 gam, loại Heroin. N vậy, Dương Quốc T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với toàn bộ số ma túy thể rắn bị thu giữ khi bị bắt quả tang có khối lượng 74,8102 gam, loại Heroin và Lê Thị Hoàng N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với toàn bộ số ma túy này. Đối chiếu với quy định của pháp luật thì bị cáo Dương Quốc T phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo Lê Thị Hoàng N phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng. Các bị cáo biết rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người mà còn là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác Nng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, để củng cố niềm tin của nhân dân, cần phải xử các bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra nhằm mục đích giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa cho toàn xã hội.

Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, cần áp dụng thêm khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự phạt bổ sung bị cáo Dương Quốc T một khoản tiền để sung vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo Lê Thị Hoàng N hoàn cảnh gia đình khó khăn, không thu lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo N.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Dương Quốc T và Lê Thị Hoàng N thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Do đó, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với đối tượng là người đàn ông đã bán ma túy cho Dương Quốc T tại khu vực bến xe Quận 8 do Dương Quốc T khai không rõ về nhân thân, lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, truy bắt để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với Lê Thị Trâm A được Lê Thị Hoàng N rủ đi chơi không biết mục đích của N là để đi gặp T nhờ mua ma túy đem về cho Cao Văn H sử dụng. Vì vậy không có cơ sở để truy cứu trách nhiện hình sự, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giải tỏa theo quy định.

Đối với Cao Văn H khai nhận phù hợp với lời khai của Dương Quốc T và Lê Thị Hoàng N. Năm 2016, H quen biết với T và T biết H có sử dụng Heroin. Đến khoảng 21 giờ, ngày 07/9/2019, khi H đang ở nhà N có nói chuyện và biết H có ý định đi mua Heroin về sử dụng. N nói với H để N đi đón chị của N tại sân bay Tân Sơn Nhất và mua ma túy giúp cho H. H gọi điện thoại cho T ở Thành phố Hồ Chí Minh hẹn đón N rồi H lưu số điện thoại của T vào điện thoại của N để liên lạc. Sau đó, H đi ra khỏi nhà có việc riêng, khi H trở về nhà, H không thấy N nên biết là N đã đi Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, H gọi điện thoại cho T nói khi nào vợ H đến Thành phố Hồ Chí Minh nhờ T đón giúp vì vợ H không rành đường, T đồng ý. Từ đó về sau, H không gọi điện thoại thêm cho N và T cuộc gọi nào nữa. Việc N lấy 15.000.000 đồng đi mua Heroin và bị bắt giữ thì H không biết rõ. N vậy, mặc dù H tuy có biết vợ là Lê Thị Hoàng N đi lên Thành phố Hồ Chí Minh để mua Heroin về cho H sử dụng Nng do H không trực tiếp đưa tiền cho N và cũng không gọi điện thoại nhờ T mua giúp Heroin cho H nên chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Cần Thơ lập hồ sơ để xử lý theo quy định.

Về vật chứng của vụ án gồm có:

- Đối với toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Lê Thị Hoàng N là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia thu giữ của bị cáo Dương Quốc T; 01 (một) điện thoại di động màu xanh hiệu Nokia 1280 thu giữ của bị cáo Lê Thị Hoàng N do các bị cáo sử dụng trong việc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) áo khoác màu đen thu giữ của bị cáo Lê Thị Hoàng N; 01 (một) áo khoác màu đen thu giữ của bị cáo Dương Quốc T; 01 (một) điện thoại di động Iphone và 01 (một) áo khoác màu đen thu giữ của Lê Thị Trâm A không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho các bị cáo N, T và bà A.

- Đối với số tiền 15.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Dương Quốc T. Bị cáo T khai số tiền này là vốn mua bán bánh của vợ chồng T, riêng số tiền 1.000.000 đồng là số tiền mà T giữ lại của N thì T đã đỗ xăng hết 100.000 đồng, số tiền còn lại đã bị rớt mất trên đường đi. Do cơ quan điều tra không chứng minh được số tiền này liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo T.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda, loại Sonic không gắn biển số, số máy: KB11E1220913, số khung: MHKB1119KK221632. Kết quả giám định số máy: KB11E1220913, số khung: MHKB1119KK221632 của chiếc xe nói trên là nguyên thủy. Kết quả xác minh chiếc xe gắn máy trên do Dương Quốc T mua tại Công ty trách nhiện hữu hạn thương mại Quang Phương (địa chỉ số:

375 An Dương Vương, Phường 14, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh) ngày 01/9/2019 Nng chưa đăng ký chủ sở hữu và chưa thanh toán số tiền 6.100.000 đồng. Đến ngày 08/9/2019, bị cáo T sử dụng xe gắn máy nói trên đi mua ma túy để bán lại cho bị cáo N thì bị bắt. Vì vậy, giao cho cơ quan có thẩm quyền bán phát mại chiếc xe máy nêu trên. Số tiền bán phát mại chiếc xe trên ưu tiên thanh toán 6.100.000 đồng cho Công ty trách nhiện hữu hạn thương mại Quang Phương. Trường hợp còn thừa tiền từ việc bán phát mại thì tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Quốc T 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày: 08/9/2019.

Phạt tiền bị cáo Dương Quốc T 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung ngân sách Nhà nước.

2. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Hoàng N 10 (mười) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày: 08/9/2019.

- Căn cứ Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động màu xanh hiệu Nokia 1280 tạm giữ của Lê Thị Hoàng N (…6252/2).

+ 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia tạm giữ của Dương Quốc T (3599750…(số mờ)).

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ 1734/19 có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo (PC09) và cán bộ điều tra Nguyễn Phi Tùng (PC04), bên trong là ma túy còn lại sau giám định (có khối lượng 74,6182 gam, loại Heroine).

Trả lại cho:

+ Bị cáo Dương Quốc T 01 (một) áo khoác màu đen và số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng.

+ Bị cáo Lê Thị Hoàng N 01 (một) áo khoác màu đen.

+ Bà Lê Thị Trâm A 01 (một) điện thoại di động Iphone (…44459, mặt trước bể nát) và 01 (một) áo khoác màu đen Giao cho cơ quan có thẩm quyền bán phát mại 01 (một) xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, số loại: Sonic, không gắn biển số, số máy: KB11E1220913, số khung: MHKB1119KK221632. Số tiền bán phát mại chiếc xe trên ưu tiên thanh toán số tiền 6.100.000 (sáu triệu một trăm ngàn đồng) đồng cho Công ty trách nhiện hữu hạn thương mại Quang Phương. Trường hợp còn thừa tiền từ việc bán phát mại thì tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2020/354, ngày 14 tháng 7 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự, Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 3949.0.9059775.00000 tại kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26/11/2019).

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 287/2020/HSST ngày 06/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:287/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về