TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 287/2019/HS-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 294/2019/HSST ngày 09 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 294/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Phạm Huy A, sinh năm 1990 tại tỉnh xx. Nơi cư trú: Xóm xx, thôn M, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Huy L và bà Nguyễn Thị D; vợ: Phạm Thị H; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 23-7-2019 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam; có mặt.
2. Đỗ Đức B, sinh năm 1978 tại tỉnh xx. Nơi cư trú: Xóm xx, thôn A, xã H, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đức T và bà Đào Thị C; vợ: Vũ Thị N; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 23-7-2019 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 23-7-2019, tổ công tác Công an phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực bệnh viện xxx, khu đô thị M, phường L, thành phố N, phát hiện Phạm Huy A và Đỗ Đức B đang đi vào một căn nhà bỏ trống có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành theo dõi. Quá trình theo dõi phát hiện Phạm Huy A đặt 01 gói nhỏ màu trắng từ tay phải xuống cửa sổ căn nhà hoang, tổ công tác đã kịp thời thu giữ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (A và B đều khai là heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa A, B và người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của B 01 điện thoại di động Xphone màu đỏ đen, 01 xe máy BKS: 29S2-xxx (đều đã cũ).
Bản kết luận giám định số 749/GĐKTHS ngày 26-7-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong gói nhỏ thu giữ của Phạm Huy A và Đỗ Đức B được niêm phong gửi giám định là ma tuý; loại ma tuý: Heroine; khối lượng mẫu: 0,117 gam.
Tại cơ quan điều tra, Phạm Huy A và Đỗ Đức B đều khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để cùng sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 23-7-2019, A đang ở khu vực chợ B, xóm xx, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình thì gặp B điều khiển xe máy BKS: 29S2-xxxx đi qua, A rủ B đi mua ma túy về cùng sử dụng. B đồng ý và đưa xe máy BKS: 29S2-xxx để A điều khiển chở B đến khu vực xx, phường T, thành phố N. Đến nơi B xuống xe đưa cho A 50.000 đồng và đứng chờ ở khu vực đó, A bỏ thêm 40.000 đồng và điều khiển xe máy BKS: 29S2-xxx đi tiếp vào một ngõ nhỏ khu vực xxx, phường T, thành phố N mua của một người đàn ông (không rõ lý lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy với giá 90.000 đồng. Sau đó quay lại điểm hẹn đón B và cả hai đi đến bệnh viện xxx, khu đô thị M, phường L, thành phố N để cùng sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.
Đối với đối tượng đã bán gói ma tuý cho A, B và xe máy BKS: 29S2-xxx tạm giữ của B, cơ quan Cảnh sát điều tra chưa đủ căn cứ để kết luận nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân các bị cáo phạm tội do chơi bời, không làm chủ được bản thân.
Bản cáo trạng số 298/CT-VKSTPNĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố các bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:
- Xử phạt bị cáo Phạm Huy A từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.
- Xử phạt bị cáo Đỗ Đức B từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; trả lại cho bị cáo B 01 điện thoại di động Xphone màu đỏ đen nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.
[2] Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 23-7-2019, Phạm Huy A và Đỗ Đức B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,117 gam heroine mục đích để cùng sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ tại bệnh viện xxx, khu đô thị M, phường L, thành phố N.
Hành vi của các bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết định khung:
Hành vi của các bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:
4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, vì vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
4.3. Về hình phạt chính:
Các bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B cùng thống nhất thực hiện một tội phạm nên là đồng phạm. Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án:
Bị cáo Phạm Huy A là người đề xuất, rủ bị cáo B đi mua ma túy và là người góp tiền và trực tiếp đi mua ma túy nên xếp bị cáo vai trò đầu trong vụ án. Về hình phạt cần có mức án cao hơn so với bị cáo B.
Bị cáo Đỗ Đức B là người bỏ tiền chung với bị cáo A để mua ma túy và là người đưa phương tiện để cùng bị cáo A đi mua ma túy sử dụng chung nên xếp bị cáo ở vai trò sau bị cáo A. Về hình phạt cần có mức án thấp hơn so với bị cáo A.
Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần ấn định cho các bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.
[5] Về hình phạt bổ sung:
Xét các bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 749/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
- 01 điện thoại di động Xphone màu đỏ đen là tài sản riêng của bị cáo B, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí Hình sự sơ thẩm.
[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:
- Xử phạt bị cáo Phạm Huy A 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23-7-2019.
- Xử phạt bị cáo Đỗ Đức B 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23-7-2019.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 749/GĐKTHS;
- Trả lại bị cáo Đỗ Đức B 01 điện thoại di động Xphone màu đỏ đen nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).
4. Án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:
Bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng)
5. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo Phạm Huy A và Đỗ Đức B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án Dân sự: Các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 287/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 287/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về