TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 287/2019/HS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 284 /2019/HSST ngày 23 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 305/2019/HSST-QĐ ngày 06/9/2019 đối với bị cáo:
Phan Văn L, sinh năm 1991 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm T xã X, huyện C, tỉnh Nghệ An; tạm trú: 4/22 khu phố L1, phường G, thị xã A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phan Văn N, sinh năm 1967 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; bị cáo có 4 chị em, bị cáo là thứ 2; tiền sự: Không có.
Tiền án:
+ Ngày 31/12/2010, Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 04 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 108, tháng 2/2011 chấp hành xong hình phạt tù
+ Ngày 27/6/2013, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp tài sản, theo bản án số 210, ngày 28/8/2014 chấp hành xong hình phạt tù.
+ Ngày 22/01/2016, Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 10, ngày 08/11/2018 chấp hành xong hình phạt tù Bị bắt tạm giam ngày 1/5/2019, có mặt
Bị hại
1.Anh Zắn Chạc V, sinh năm 1976; thường trú: Ấp 1 xã L, huyện Q, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
2. Anh Lê Mỹ N, sinh năm 1988; thường trú: Khu phố 6, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: Số 242 đường Lê Hồng Phong, khu phố T, phường H, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1.Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon; địa chỉ Lầu 8,9 ,10 Tòa nhà Gilimex, 24 C Phan Đăng Lưu, phường 6, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1993; thường trú: Phường 15, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh là đại diện (theo giấy ủy quyền số 190612-02/UQ-COL ngày 12/6/2019), có mặt.
2. Anh Thòong Chắn L, sinh năm 1978; thường trú: 1B/13 khu phố L2, phường A, thị xã K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
- Người chứng kiến:
1. Anh Trần Ngọc Đ, vắng mặt.
2. Anh Phạm Phương V, vắng mặt.
3. Anh Hồ Công T, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 01/5/2019, bị cáo Phan Văn L được người tên Tâm (không rõ nhân thân) điện thoại rủ đi trộm cắp tài sản, L sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 37E1-611.97 đến đón Tâm ở điểm hẹn, Tâm mang theo 01 cây đoản dùng bẻ khóa xe mô tô hình chữ T, khi gặp L đưa xe cho Tâm điều khiển. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày cả hai lưu thông đến trước nhà số 799 đường ĐT 743, khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương gặp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150 màu xám xanh, biển số 61D1-862.61 của anh Zắn Chạc V đang dựng trước cửa nhà (xe của anh Thòong Chắn L cho anh Zắn Chạc V mượn). Tâm dừng xe đưa L cây đoản bẻ khóa, L đi bộ tiếp cận xe mô tô biển số 61D1-862.61 dùng cây đoản đưa vào ổ khóa bẻ mạnh làm đèn xe sáng. L ngồi lên xe mô tô nổ máy tẩu thoát về hướng quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Tâm điện thoại cho Tuấn (không rõ nhân thân) bán xe mô tô biển số 61D1-862.61 cho Tuấn được 16.000.000 đồng. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô biển số 37E1-611.97 chở Tâm đi đến trước cửa hàng Nguyên Ngọc địa chỉ số 242 đường Lê Hồng Phong, khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cả hai gặp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen xám, biển số 72K1-264.65 của anh Lê Mỹ N đang dựng ở trước cửa hàng Nguyên Ngọc, L dừng xe ngồi cảnh giới và đưa cây đoản cho Tâm, Tâm cầm cây đoản bẻ khóa đi bộ tiếp cận xe mô tô biển số 72K1-264.65, dùng đoản bẻ khóa xe, khi đang bẻ khóa thì anh Trần Ngọc Đ nhìn thấy truy hô. Tâm bỏ chạy lên xe mô tô biển số 37E1-611.97 để L chở tẩu thoát thì bị người dân xung quanh xô ngã xe, bắt giữ L báo Công an phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, riêng Tâm tẩu thoát.
Vật chứng thu giữ:
+ Xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen xám, số khung: 403609, số máy 7031843, biển số 72K1-264.65 của anh Lê Mỹ N
+ Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ, số khung: 103066, số máy 869491, biển số 37E1-611.97, 01 quần jean dài màu xanh bạc của bị cáo Phan Văn L
+ 01 USB hiệu addlink của anh Zắn Chạc V cung cấp hình ảnh bị cáo L chiếm đoạt xe (lưu giữ trong hồ sơ)
Kết luận định giá tài sản số 119/BB.ĐG ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận:
- Xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150 màu xám xanh, số khung: 602466, số máy: 627600, biển số 61D1-862.61 có trị giá 34.000.000 đồng.
- Xe mô tô hiệu Honda AirBlade màu đen xám, số khung 403609, số máy 7031843, biển số 72K1-264.65 có trị giá 20.000.000 đồng.
Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt 54.000.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150 màu xám xanh, số khung 602466, số máy 627600, biển số 61D1-862.61 bị cáo L và người tên Tâm bán không thu hồi được. Anh V yêu cầu bị cáo L bồi thường trị giá 34.000.000 đồng. Anh Lê Mỹ N đã nhận được xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen xám, biển số 72K1-264.65, anh N không có yêu cầu bồi thường gì khác.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ, biển số 37E1-611.97 của bị cáo L. Xe trên có nguồn gốc ngày 26/01/2019, bị cáo L ký Hợp đồng đề nghị cấp tín dụng kiêm Hợp đồng tín dụng vay số tiền 27.000.000 đồng của Công ty TNHH HD SAISON để mua xe mô tô, thời hạn vay vốn là 09 tháng kể từ ngày 25/02/2019 đến ngày 25/10/2019 với tổng số tiền phải trả gốc, lãi là 31.692.482 đồng. Bị cáo L đã trả được số tiền 6.998.000 đồng còn nợ 25.139.325 đồng.
Cáo trạng số 306/CT-VKS-DA ngày 23/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Văn L về tội Trộm cắp tài sản, theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Văn L từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo L bồi thường cho bị hại V số tiền 34.000.000 đồng.
Đối với vật chứng thu giữ: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ, biển số 37E1-611.97 của bị cáo L đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao thi hành án dân sự thị xã Dĩ An phát mãi, ưu tiên khoản thanh toán cho Công ty TNHH HD SAISON để bảo đảm việc xử lý nợ của khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2W012744739 ngày 26/01/2019. Khoản còn thừa nếu có tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phát mãi xe thu giữ của bị cáo L để thu hồi khoản nợ cho Công ty TNHH HD SAISON, bị cáo L còn nợ lại.
Bị cáo L không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo L nói lời sau cùng: Xin được giảm nhẹ mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01/5/2019, lời khai bị hại, người chứng kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, kết luận định giá, biên bản ghi lời khai bị cáo, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện. Vào ngày 01/5/2019, bị cáo Phan Văn L sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ, biển số 37E1-611.97 cùng người tên Tâm (không rõ nhân thân) lén lút sử dụng đoản khóa hình chữ T bẻ khóa để chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150 màu xám xanh, biển số 61D1-862.61 của anh Zằn Chạc V có trị giá 34.000.000 đồng, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen xám, biển số 72K1-264.65 của anh Lê Mỹ N có trị giá 20.000.000 đồng, tổng trị giá chiếm đoạt 54.000.000 đồng. Bị cáo L có 03 tiền án thuộc trường hợp tái phạm, tiếp tục phạm tội mới. Như vậy, hành vi trên của bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, quy định điểm c, g (chiếm đoạt tài sản trị giá 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 306/CT-VKS-DA ngày 23/8/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo L phạm tội 02 lần trở lên.
Tình tiết trên quy định điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo L thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đối với xe mô tô 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen xám, biển số 72K1-264.65 của anh Lê Mỹ N có trị giá 20.000.000 đồng bị cáo mới bẻ khóa xe chưa chiếm đoạt được tài sản thì bị bắt giữ. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo L có nhân thân rất xấu thể hiện không có nghề nghiệp, bị cáo liên tục phạm tội trộm cắp tài sản. Thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.
[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo L phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 07 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[3] Trong vụ án có người tên Tâm không nhõ nhân thân cùng tham gia phạm tội với bị cáo. Công an thị xã Dĩ An tách xác minh điều tra xử lý sau là phù hợp.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Mỹ N đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường. Anh Zắn Chạc V bị chiếm đoạt tài sản trị giá 34.000.000 đồng, do không thu hồi được. Anh V yêu cầu được bồi thường là phù hợp.
Tại phiên tòa đại diện Công ty TNHH HD SAISON yêu cầu bị cáo L có trách nhiệm trả khoản vay gốc và tiền lãi 25.139.352 đồng do bị cáo L vay tiền để mua xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ, biển số 37E1-611.97, số khung 103066, số máy 869491. Theo hợp đồng tín dụng số 2W012744739 ngày 26/01/2019 giữa bị cáo và công ty. Yêu cầu này có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 01 quần jean của bị cáo L, tại phiên tòa bị cáo L từ chối nhận lại. Vì vậy, Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự và mức hình phạt đối với bị cáo L. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.
[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo L phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Phan Văn L phạm tội Trộm cắp tài sản.
Căn cứ vào điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phan Văn L 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2019.
2. Các biện pháp tư pháp:
2.1 Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Phan Văn L bồi thường cho bị hại anh Zắn Chạc V số tiền 34.000.000 đồng (ba mươi bốn triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2.2 Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 quần jean dài màu xanh bạc.
+ Tiếp tục giao thi hành án dân sự thị xã Dĩ An phát mãi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đỏ, số khung 103066, số máy 869491, biển số 37E1-611.97 của bị cáo Phan Văn L, ưu tiên khoản thanh toán cho Công ty TNHH HD SAISON để bảo đảm việc xử lý nợ của khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2W012744739 ngày 26/01/2019 giữa bị cáo Phan Văn L và công ty số tiền 25.139.325 đồng (hai mươi lăm triệu, một trăm ba mươi chín nghìn, ba trăm hai mươi lăm đồng). Trường hợp còn thừa tiền từ việc bán phát mãi nếu có tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2019.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.
Bị cáo Phan Văn L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 1.700.000 đồng (một triệu bảy trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 287/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 287/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về