Bản án 283/2020/HS-PT ngày 08/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 283/2020/HS-PT NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 5 năm 2020, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 200/2020/TLHS- PT ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị T1 do có bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 307/2019/HSST ngày 31/12/2019 của Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị T1, sinh năm 1974; Nơi ĐKHKTT: 25A Tổ 2B, phường TN, quận HBT, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Số 263 ngõ 281 đường TKT, phường TN, quận HBT, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức TH1 và con bà Trần Thị L1; Chồng con chưa có; Tiến án, tiền sự: 01 tiền sự.

- Năm 2000, công an quận HK xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Gây rối trật tự công cộng.

Danh chỉ bản số 386 ngày 23/10/2019 do Công an quận HBT thành phố Hà Nội lập. Bị bắt quả tang ngày 20/9/2019, trả tự do ngày 20/9/2019. Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Khắc H1 – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Cao Đạt; Địa chỉ: Tầng 5, số 83 NK, huyện Yên Hòa, quận CG, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23 giờ 45 ngày 19/9/2019 tổ công tác – Công an phường LĐH phối hợp với tổ công tác Y9-KH141/CATP Hà Nội làm nhiệm vụ tại ngã ba ĐCV – NĐC (đối diện số 120 ĐCV) phường LĐH, quận HBT, thành phố Hà Nội phát hiện Nguyễn Huy TU1 (sinh năm: 1979, HKTT: thôn HB, ĐB, YS, TQ) chở Nguyễn Thị T1 điều khiển xe máy Honda Today Fi màu đen không biển kiểm soát có dấu hiệu nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ trong cốp xe máy 01 cân điện tử màu đen kích thước (6x8x2)cm. Tại chỗ,T1 tự tay lấy trong áo ngực ra 01 túi nilon kích thước (3x4)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng và tự khai nhận là ma túy “đá”T1 mua về để sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong tang vật và đưa TU1 vàT1 về trụ sở để điều tra, xác minh. Ngoài ra còn thu giữ củaT1 01 điện thoại di động Masstel màu đen, 01 xe máy Honda Today không biển kiểm soát, 12.000.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an quận HBT đã ra quyết định trưng cầu giám định số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Thị T1.

Ti bản kết luận giám định số 6018/PC09 ngày 27/9/2019, phòng KTHS – CATP Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng: 1,779 gam.

- 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy loại Methamphetamine.

Ti cơ quan Công an, ban đầu Nguyễn Thị T1 khai nhận:Khoảng 19h00 ngày 19/09/2019,T1 có đến khu vực ngõ Q1 giao với Thanh Nhàn – HBT – Hà Nội để tìm mua ma túy về sử dụng và để bán kiếm lời. Tại đây,T1 gặp và mua của một người đàn ông trung niên 01 túi ma túy đá với giá 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng). Sau đó,T1 cất gói ma túy vào áo ngực bên phải và đi về nhà. Khi về đến nhà,T1 có lấy “nửa gam ma túy đá” để sử dụng, số còn lạiT1 cất vào áo ngực bên phải. Đến 21h00 cùng ngày, Nguyễn Huy TU1có đến nhàT1 chơi. Sau đó,T1 nhận được điện thoại của TU1“ruồi” (là bạn xã hội, không rõ nhân thân lai lịch) gọi từ số 0975132594 gọi đến sốT1 là 0909311996 hỏi mua ma túy đá.T1 đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại hồ BM – Hà Nội. Sau đó,T1 nhờ Huy TU1chở đi chơi để giao ma túy. Khi đi đến trước cửa số nhà 120 ĐCV – Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra.T1 tự nguyện lấy trong áo ngực bên phải 01 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy đáT1 đang mang đi bán để giao nộp cho cơ quan công an. Cơ quan công an đã lập biên bản, niêm phong và đưaT1 cùng TU1về trụ sở để điều tra làm rõ.T1 khai việcT1 bán ma túy và mang ma túy trong người, Huy TU1không biết.

Ngoài ra, khoảng 19h00 ngày 15/9/2019, tại khu vực đầu ngõ Q1 giao với TN, HBT, Hà Nội,T1 gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 5 gam ma túy đá với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng).T1 đã dùng hết 4 gam. Khoảng 20h30 cùng ngày.T1 bán 01 gam ma túy còn lại cho TU1“ruồi” với giá 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) vào khoảng 20h30 cùng ngày.

Sau khi được cơ quan điều tra cho tại ngoại, đến ngày 14/10/2019, tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị T1thay đổi lời khai và khai như sau:

Khoảng 19h00 ngày 19/9/2019,T1 đi bộ một mình ra ngõ Q1 để mua ma túy về sử dụng. Tại đây,T1 gặp và mua của một nam thanh niên 01 túi ma tuý đá với giá 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy,T1 mang về nhà và lấy một ít ra sử dụng, còn lạiT1 cất giấu bên trong áo ngực. Đến khoảng 21h00 cùng ngày, Nguyễn Huy TU1có đến nhàT1 chơi. Sau đó, TU1“ruồi”điện thoại choT1 để hẹn trả tiền nợ và có nói chuyện về việc mới mua được xe máy. Sau đó, TU1“ruồi” hẹn gặpT1 ở hồ BM– Hà Nội để trả tiền choT1 nênT1 rủ Huy TU1chởT1 đến điểm hẹn.Khi đi đến trước cửa số nhà 120 ĐCV, HBT, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra. Do giấu ma túy trong áo ngực nên T1 tự nguyện giao nộp và khai nhận là ma túy T1 mua để sử dụng. Sau đó, cơ quan công an đã lập biên bản thu giữ, niêm phong và dẫn T1 cùng Huy TU1 về trụ sở để làm rõ. ViệcT1 mua ma túy và cất giấu ma túy trong người, Huy TU1 không biết và không liên quan.T1 khai từ trước đến nay không bán ma túy cho ai và cũng không bán ma túy cho TU1.Lý do T1 thay đổi lời khai là do khi bị bắt, T1 nhận thức tội mua ma túy để sử dụng nặng hơn tội mang ma túy đi bán vì phải đi thụ án và đi cai nghiện 4 năm nên đã tự khai là mua ma túy để bán. Đồng thời, ban đầu khi mới bị bắt, tinh thần hoảng loạn, tâm lý chưa ổn định, lo sợ nên T1 đã khai không đúng.

Ti cơ quan điều tra, Nguyễn Huy TU1 khai nhận:Khoảng 23h30 ngày 19/9/2019, khi TU1 đang ở nhà T1 thì thấy T1 bảo TU1 chở T1 ra hồ BM– Hà Nội. Khi đi đến ngã ba ĐCV – NDDC - P. LDDH, HBT, Hà Nội thì bị lực lượng công an 141 dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, T1 tự nguyện lấy trong áo ngực ra 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng.T1 khai nhận là ma túy đá. Cơ quan công an đã niêm phong tang vật và đưa TU1 và T1 về trụ sở để làm việc. ViệcT1 giấu ma túy trong người, TU1 không biết và không liên quan.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tổ chức tiến hành dẫn giải xác định địa điểm và người đàn ông bán ma túy cho T1, kết quảT1 xác định được địa điểm mua ma túy là tại vỉa hè trước cửa số nhà 106 A9 TN – P. TN – HBT – Hà Nội nhưng không xác định được người bán ma túy. Vì vậy không có căn cứ xác minh, xử lý.

Đối với người đàn ông tên TU1“ruồi”, ngày 21/10/2019, cơ quan CSĐT – Công an quận HBT đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với số điện thoại T1 khai là của TU1“ruồi” (0975132594), hiện nay chưa xác định được nên ngày 14/11/2019, cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận HBT đã ra Quyết định tách tài liệu liên quan đến số điện thoại trên để tiếp tục điều tra.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Today FI màu đen thu giữ củaT1,T1 khai là mượn của bạn xã hội tên là Hương (không rõ nhân thân) vào ngày 18/09/2019 tại khu vực chợ đêm KL – Hà Nội. Qua xác minh, chiếc xe là tang vật trong vụ án do Công an quận TX đang điều tra nên ngày 04/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận HBT đã ra Quyết định tách tài liệu liên quan đến chiếc xe máy để chuyển đến cơ quan CSĐT – Công an quận TX – Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền.

Đối với chiếc điện thoại Massel thu giữ củaT1 và số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) xác định là tài sản cá nhân củaT1.

Ti bản cáo trạng số 304/CT/VKS-HS ngày 20 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận HBT, thành phố Hà Nội truy tố Nguyễn Thị T1về Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ti bản án số 307/2019/HSST ngày 31/12/2019 của Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Thị T1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Áp dụng: c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị T1 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ ngày 20/9/2019.

Ngoài ra bản án còn quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 03/01/2020, bị cáo đã có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ti phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:

- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Nguyễn Thị T1 có hành vi tàng trữ trái phép 1,779 g Methamphetannine. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội "Tàng tr trái phép chất ma túy" là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo với mức án 36 (Ba mươi sáu) tháng tù là có phần nghiêm khắc. Đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T1. Sửa bản an sơ thẩm.

Áp dụng: c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị T1 từ 27 (Hai mươi bẩy) đến 33 (Ba mươi ba) tháng tù.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo đã tự nguyện nộp gói ma túy. Bị cáo khai báo thành khẩn, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có việc làm ổn định, con nhỏ. Đề nghị áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo được hưởng mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Nguyễn Thị T1 trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Thị T1 tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 19/9/2019 tại trước cửa số nhà 120 ĐCV, phường LDH, quận HBT, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị T1có hành vi tàng trữ trái phép 1,779 gam Methamphetine. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T1 đã bị Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T1, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T1 là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Bị cáo biết rõ hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy" là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị T1 và xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 36 (Ba mươi sáu) tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị T1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 307/2019/HSST ngày 31/12/2019 của Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố Hà Nội về phần quyết định hình phạt.

Tuyên bố: Nguyễn Thị T1phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Áp dụng c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị T1, 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ ngày 20/9/2019.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vê án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự phúc thẩm.

Bn án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 283/2020/HS-PT ngày 08/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:283/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về