TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN
Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:
Ngô Thị Phương L, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1988 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã A, huyện A, thành phố H. Nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện A, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Thành Tr (đã chết) và bà: Phạm Thị Ng; có chồng là Ngô Văn H và 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/8/2019; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 13/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền và Công an phường M tiến hành kiểm tra hành chính xe mô tô do Hoàng Văn L, sinh năm 1971; trú tại: đường A, xã A, huyện A, thành phố H điều khiển trên đường Đ, phường M, quận N, thành phố H nghi ngờ có hoạt động mua bán trái phép hóa đơn. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Văn L, nơi cư trú: đường A, xã A, huyện A, thành phố H. Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng liên quan của Ngô Thị Phương L tại tầng lửng của ngôi nhà trên gồm: 01 dấu tròn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Vận tải Hoàng A (viết tắt Công ty Hoàng A); 01 dấu tròn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Vận tải Hoàn K viết tắt Công ty Hoàn K); 01 dấu chức danh Giám đốc Vũ Văn T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Thị H; 02 dấu khắc hình chữ ký; 01 quyển hóa đơn giá trị gia tăng (viết tắt GTGT) mẫu số 01GTKT3/001 ký hiệu AA/18P từ số 0000301 đến số 0000350 của Công ty Hoàn K; 01 quyển hóa đơn giá trị gia tăng (viết tắt GTGT) mẫu số 01GTKT3/001 ký hiệu AA/18P từ số 0000701 đến số 0000750 của Công ty Hoàng A; 01 CPU màu đen không có nhãn mác của nhà sản xuất; 01 điện thoại di động Nokia màu cam, màn hình màu đã qua sử dụng và một số giấy tờ tài liệu khác.
Quá trình điều tra Ngô Thị Phương L khai nhận: Từ tháng 4/2017 đến tháng 6 năm 2018, để thực hiện việc mua bán trái phép hóa đơn GTGT nhằm mục đích thu lợi bất chính, Ngô Thị Phương L đã mua pháp nhân của 02 Công ty Hoàng A và Công ty Hoàn K và trực tiếp thực hiện các hoạt động mua bán trái phép hóa đơn GTGT của hai công ty này. Ngô Thị Phương L đã bán tổng cộng 83 tờ hóa đơn GTGT của hai công ty Hoàng A và Hoàn K cho 30 công ty với tổng doanh số ghi khống trên hóa đơn chưa thuế là 20.154.025.852 đồng, tổng số tiền thuế là 2.015.402.585 đồng, thu lợi 201.540.258 đồng. Cụ thể:
Tháng 4 năm 2017, qua mối quan hệ xã hội Ngô Thị Phương L đã liên hệ với một người phụ nữ (hiện chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ) để mua pháp nhân Công ty Hoàng A, mã số doanh nghiệp: 0201784058 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp đăng ký lần đầu ngày 27/4/2017; trụ sở: đường L phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; chủ sở hữu và Người đại diện theo pháp luật của Công ty là Vũ Văn T - Chức danh: Giám đốc, sinh ngày 04/5/1972, nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hg. Tiếp tục đến tháng 6 năm 2018, Ngô Thị Phương L lại liên hệ với người phụ nữ trên mua pháp nhân của Công ty Hoàn K, mã số doanh nghiệp: 0201881238 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp đăng ký lần đầu ngày 12/6/2018; địa chỉ trụ sở: đường A phường Đ, quận N, thành phố H; chủ sở hữu và người đại diện theo pháp luật của Công ty là Phạm Thị H - Chức danh: Giám đốc, sinh ngày 16/4/1977, nơi cư trú: thôn A xã D, huyện V, thành phố H.
Quá trình hoạt động của hai công ty, Ngô Thị Phương L đã viết nội dung của 83 tờ hóa đơn cho 30 công ty. Trong đó, Công ty Hoàng A phát hành 35 tờ hóa đơn ghi khống trên doanh thu chưa thuế là 10.572.208.845 đồng, tiền thuế GTGT là 1.057.220.884 đồng với giá 1% doanh thu chưa thuế, thu lợi 105.722.088 đồng; công ty Hoàn K phát hành 48 tờ hóa đơn, ghi khống trên doanh thu chưa thuế là 9.581.817.007 đồng, tiền thuế GTGT là 958.181.700 với giá 1% doanh thu chưa thuế, thu lợi 95.818.170 đồng; còn 17 tờ hóa đơn, trong đó 15 tờ của công ty Hoàng A phát hành và 02 tờ của công ty Hoàn K phát hành, khách mua hóa đơn không đến lấy nên Ngô Thị Phương L đã hủy.
Quá trình bán 83 tờ hóa đơn cho 30 công ty, Ngô Thị Phương L thuê nhà số đường A, xã A huyện A, thành phố H để con dấu, tài liệu và các giấy tờ liên quan. Ngô Thị Phương L tự mình soạn thảo hợp đồng kinh tế và các tài liệu liên quan, sau đó Ngô Thị Phương L tự ký tên giám đốc và đóng dấu chức danh của giám đốc trên hóa đơn, hợp đồng và các tài liệu liên quan rồi gửi cho người mua. Quá trình giao dịch Ngô Thị Phương L thuê Trần Thị Thu H, sinh năm 1981; nơi cư trú: đường T, phường Ci, quận Ln, thành phố H thu tiền trực tiếp hoặc thực hiện các giao dịch bằng việc mở tài khoản công ty Hoàng A tại Ngân hàng TMCP Quân đội và Công ty Hoàn K tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Mỗi lần chuyển tiền Ngô Thị Phương L trả cho Trần Thị Thu H 200.000 đồng.
Về việc sử dụng số tiền thu lợi bất chính, qua quá trình xác minh tại Chi cục Thuế quận Ngô Quyền thì Ngô Thị Phương L đã nộp thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp và lệ phí môn bài của Công ty Hoàng A là 55.121.914 đồng, của Công ty Hoàn K là 7.700.000 đồng, số tiền thực tế Ngô Thị Phương L thu lợi sau sau nộp thuế là 138.718.344 đồng, số tiền này Ngô Thị Phương L sử dụng chi tiêu cá nhân hết.
Cơ quan điều tra đã xác minh tại 30 công ty mua hóa đơn GTGT của Công ty Hoàng A và Hoàn K (Cơ quan điều tra đều thu giữ được liên 1 và liên 3 của hóa đơn mua bán). Cụ thể:
Sử dụng hóa đơn của Công ty Hoàng A: Tổng Công ty Duyên Hải đã sử dụng 04 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Công ty Cổ phần Autask đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; Công ty Cổ phần Tư vấn và Đầu tư xây dựng Hoàng Khanh đã sử dụng 02 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Xây dựng và Thương mại Tường Lâm đã sử dụng 03 tờ hóa đơn; Công ty cồ phần Xây dựng và Phát triển Hoàng Dương đã sử dụng 06 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện An Lão, thành phố Hải Phòng; Công ty TNHH Hoa Nam đã sử dụng 09 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; Công ty TNHH thương mại tổng hợp Thạch Anh đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty TNHH thương mại tổng hợp Thiên Anh đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty TNHH thương mại tổng hợp Vương Anh đã sử dụng 01 tờ hóa đơn đều kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; Công ty TNHH thương mại và dịch vụ vận tải Tuấn Hưng đã sử dụng 05 tờ hóa đơn; Công ty TNHH thương mại và xây dựng Tài Linh đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; Công ty TNHH Xuân NH2 đã sử dụng 01 tờ hóa đơn. Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền đã chuyển hồ sơ và tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Cơ quan điều tra huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; Cơ quan điều tra huyện An Lão, thành phố Hải Phòng; Cơ quan điều tra huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; Cơ quan điều tra huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc và Cơ quan điều tra huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để tiếp tục điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Sử dụng hóa đơn của Công ty Hoàn K: Công ty Cổ phần Công nghiệp Minh Hoàng đã sử dụng 06 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Công ty Bảo hiểm Pjico Hải Phòng đã sử dụng 05 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; Công ty Cổ phần Dược Hải Phòng đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty vận tải và dịch vụ tổng hợp 530 đã sử dụng 12 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần nhựa thiếu niên Tiền Phong đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty thương mại Hải Phòng đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần Vạn Xuân đã sử dụng 06 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Hà Hưng Hải đã sử dụng 02 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Huyền Tùng Việt đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần Dolphin đã sử dụng 02 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại Sản xuất may Sen Vàng đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; Công ty TNHH Vật liệu Xây dựng Hùng Phát đã sử dụng 02 tờ hóa đơn; Công ty TNHH phát triển Trang Long Stone đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng; Công ty TNHH Vận tải Du lịch Đức Nhung đã sử dụng 02 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; Công ty Cổ phần Thương mại Cơ khí xây dựng Hải Sơn đã sử dụng 02 tờ hóa đơn; Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Xuân Long đã sử dụng 01 tờ hóa đơn kê khai thuế tại Chi cục Thuế thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Công ty TNHH Thương mại Quốc Di đã sử dụng 01 tờ hóa đơn; Công ty Cổ phần Logistic Tân thế giới Hải Phòng đã sử dụng 01 tờ hóa đơn đều kê khai thuế tại Chi cục Thuế thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền đã chuyển hồ sơ và tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Cơ quan điều tra quận Hồng Bàng, quận Dương Kinh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; Cơ quan điều tra thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa và Cơ quan điều tra thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Đối với các công ty: Công ty Cổ phần tư vấn và đầu tư xây dựng Hoàng Khanh, Công ty Cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng và thương mại Tường Lâm, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ vận tải Tuấn Hưng, Công ty TNHH Xuân NH2, Công ty Cổ phần Dược Hải Phòng; Công ty vận tải và dịch vụ tổng hợp 530, Công ty Cổ phần nhựa thiếu niên Tiền Phong, Công ty thương mại Hải Phòng, Công ty Cổ phần Vạn Xuân, Công ty TNHH Hà Hưng Hải, Công ty TNHH Huyền Tùng Việt, Công ty Cổ phần Dolphin, Công ty TNHH vật liệu xây dựng Hùng Phát, Công ty Cổ phần thương mại cơ khí xây dựng Hải Sơn, quá trình điều tra xác minh thể hiện các công ty mua hàng hóa thật để phục vụ cho kinh doanh và được xuất hóa đơn GTGT từ Công ty Hoàng A và Công ty Hoàn K, các công ty không biết và không trao đổi mua bán hóa đơn với Ngô Thị Phương L.
Lời khai của bị cáo Ngô Thị Phương L phù hợp với lời khai của những người làm chứng Nguyễn Thị Tr, Trần Thị Thu H, Hoàng Văn L, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Về dân sự: Ngô Thị Phương L đã tự nguyện nộp số tiền 10.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.
Vật chứng của vụ án: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàng A; 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàn K; 01 dấu chức danh Giám đốc Vũ Văn T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Thị H; 02 dấu khắc hình chữ ký; 01 quyển hóa đơn GTGT mẫu số 01GTKT3/001 ký hiệu AA/18P từ số 0000301 đến số 0000350 của Công ty TNHH Xây dựng và Vận tải Hoàn K; 01 quyển hóa đơn GTGT mẫu số 01GTKT3/001 ký hiệu AA/18P từ số 0000701 đến số 0000750 của Công ty TNHH Xây dựng và Vận tải Hoàng A; 01CPU màu đen không có nhãn mác của nhà sản xuất, có dấu niêm phong của Công an quận Ngô Quyền; 01 điện thoại Nokia màu cam màn hình màu đã qua sử dụng (không kiểm tra chất lượng).
Một số giấy tờ, hóa đơn GTGT, chứng từ có liên quan khác (có thống kê chi tiết trong bảng kê vật chứng kèm theo hồ sơ vụ án).
Tại Bản Cáo trạng số 14/CT-VKSNQ ngày 03/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Ngô Thị Phương L về tội "Mua bán trái phép hóa đơn" theo quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự.
Do điều kiện khách quan về dịch bệnh COVID 19. Ngày 13/4/2020 Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã ra Thông báo số 06/TB-TA ngày 13/4/2020 thông báo thay đổi thời gian xét xử. Ngày 21/4/2020 Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã ra Thông báo số 25/TB-TA ngày 21/4/2020 thông báo về việc mở lại phiên tòa xét xử ngày 08/5/2020. Ngày 07/5/2020 bị cáo Ngô Thị Phương L có đơn xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe. Tòa án đã ra quyết định hoãn phiên tòa.
Ngày 31/01/2020 bị cáo tự nguyện nộp vào Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền số tiền 10.000.000 đồng; ngày 30/3/2020 bị cáo đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền thu lời bất chính là 138.718.344 đồng để khắc phục hậu quả; ngày 19/5/2020 bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 40.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Thị Phương L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên và xin giảm nhẹ hình phạt.
Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ngô Thị Phương L phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.
Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 203; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt:
Phạt tiền bị cáo Ngô Thị Phương L số tiền 200.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 138.718.344 đồng là tiền thu lợi bất chính, số tiền này đã được bị cáo tự nguyện nộp ngày 30/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Đối với số tiền 10.000.000 đồng bị cáo nộp vào ngày 31/01/2020 và 40.000.000 đồng nộp ngày 19/5/2020, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu tiêu hủy: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàng A; 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàn K; 01 dấu chức danh Giám đốc Vũ Văn T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Thị H; 02 dấu khắc hình chữ ký; 01CPU màu đen không có nhãn mác của nhà sản xuất, có dấu niêm phong của Công an quận Ngô Quyền; 01 điện thoại Nokia màu cam màn hình màu đã qua sử dụng (không kiểm tra chất lượng).
Bị cáo Ngô Thị Phương L phải chịu án phí hình sự sơ thấm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Ngô Thị Phương L được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
[1] Việc khởi tố, điều tra, truy tố và ban hành quyết định khởi tố, truy tố; áp dụng biện pháp ngăn chặn; tống đạt các văn bản tố tụng; lấy lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; thời hạn điều tra, truy tố về cơ bản đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:
[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai người làm chứng, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và vật chứng thu giữ có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 8 năm 2019, Ngô Thị Phương L đã có hành vi sử dụng Công ty Hoàng A và Công ty Hoàn K để mua bán trái phép 83 số hóa đơn giá trị gia tăng, thu lợi bất chính 138.718.344 đồng. Tại thời điểm thực hiện hành vi (từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 8 năm 2019), bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép hóa đơn” theo quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự.
[3] Việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo Ngô Thị Phương L về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.
- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4] Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền quản lý trong lĩnh vực thuế của Nhà nước mà còn xâm hại đến lợi ích kinh tế quốc gia, làm suy giảm Ngân sách Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã mua 02 pháp nhân để phát hành hóa đơn GTGT và ghi nội dung hàng hóa khống 83 số hóa đơn để mua bán trái phép thu lời bất chính trong khoảng thơi gian từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 8 năm 2019 nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[5] Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, nộp lại toàn bộ số tiền thu lời bất chính theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Căn cứ khoản 2 Điều 203 của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt là phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, có chỗ ở ổn định, đã tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền thu lời bất chính và có khả năng thi hành hình phạt chính là phạt tiền. Vì vậy, có thể áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo mà không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đáp ứng được yêu cầu răn đe và phòng ngừa tội phạm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.
- Về thu lời bất chính và xử lý vật chứng:
[7] Tại giai đoạn điều tra, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 10.000.000 đồng. Tại giai đoạn xét xử, ngày 30/3/2020 bị cáo Ngô Thị Phương L đã tự nguyện nộp số tiền 138.718.344 đồng, ngày 19/5/2020 bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 40.000.000 đồng. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 138.718.344 đồng là tiền thu lời bất chính. Đối với số tiền 10.000.000 đồng và 40.000.000 đồng. Tổng cộng là 50.000.000 đồng, bị cáo Ngô Thị Phương L tự nguyện nộp cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[8] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàng A; 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàn K; 01 dấu chức danh Giám đốc Vũ Văn T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Thị H; 02 dấu khắc hình chữ ký; 01 CPU màu đen không có nhãn mác của nhà sản xuất, có dấu niêm phong của Công an quận Ngô Quyền; 01 điện thoại Nokia màu cam màn hình màu đã qua sử dụng (không kiểm tra chất lượng).
[9] Một số giấy tờ, hóa đơn GTGT, chứng từ có liên quan khác (có thống kê chi tiết trong bảng kê vật chứng) đều là công cụ bị cáo sử dụng để phạm tội nhưng được đánh số bút lục kèm theo hồ sơ vụ án nên không xem xét.
- Về án phí:
[10] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; bị cáo Ngô Thị Phương L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo:
[11] Bị cáo Ngô Thị Phương L được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[12] Trong vụ án còn có Phạm Thị H và Vũ Văn T là giám đốc của 02 Công ty Hoàng A và Hoàn K, quá trình điều tra, hiện Phạm Thị H và Vũ Văn T không có mặt tại nơi cư trú nên Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền tách ra tiếp tục xác minh, có căn cứ sẽ xử lý sau.
[13] Đối với người phụ nữ bán pháp nhân của 02 Công ty Hoàng A và Hoàn K cho Ngô Thị Phương L và một số cá nhân khác tên Giang, Long, Hương là người trực tiếp mua hóa đơn của 02 công ty hiện chưa xác định rõ lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, có căn cứ sẽ xử lý sau.
[14] Đối với Trần Thị Thu H được Ngô Thị Phương L thuê làm giao dịch chuyển tiền tại ngân hàng; Hoàng Văn L được Ngô Thị Phương L cho thuê lại tầng 1 căn nhà đường An Dương 1, xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng và một vài lần được Ngô Thị Phương L thuê chuyển hóa đơn nhưng Trần Thị Thu H và Hoàng Văn L không biết việc mình làm để giúp cho Ngô Thị Phương L thực hiện việc mua bán trái phép hóa đơn nên Cơ quan điều tra không xem xét, giải quyết.
[15] Đối với Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1979; nơi cư trú: đường Phạm Phú Thứ, phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng là người mua của Ngô Thị Phương L 08 tờ hóa đơn GTGT, sau đó bán cho người khác để thu lợi bất chính nhưng số lượng hóa đơn và số tiền thu lợi bất chính chưa đủ để xử lý hình sự theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 203; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Phạt tiền bị cáo Ngô Thị Phương L số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.
Số tiền bị cáo Ngô Thị Phương L đã nộp tổng cộng là 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng. Trong đó 10.000.000 đồng, theo Giấy nộp tiền vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 06 tháng 3 năm 2020 và 40.000.000 đồng, theo biên lai thu tiền số: AA/2010/3303 ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 138.718.344 đồng (một trăm ba mươi tám triệu, bảy trăm mười tám nghìn, ba trăm bốn mươi bốn) đồng là tiền thu lời bất chính. Theo biên lai thu tiền số: AA/2010/3277 ngày 30/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàng A; 01 dấu tròn của Công ty TNHH Xây dựng Vận tải Hoàn K; 01 dấu chức danh Giám đốc Vũ Văn T; 01 dấu chức danh Giám đốc Phạm Thị H; 02 dấu khắc hình chữ ký; 01 CPU màu đen không có nhãn mác của nhà sản xuất, có dấu niêm phong của Công an quận Ngô Quyền; 01 điện thoại Nokia màu cam màn hình màu đã qua sử dụng (không kiểm tra chất lượng). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Ngô Thị Phương L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Ngô Thị Phương L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 28/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội mua bán trái phép hóa đơn
Số hiệu: | 28/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về