Bản án 28/2020/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 1 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2020/TLST-HS, ngày 24 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST-HS, ngày 06/01/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1972, tại huyện M, tỉnh Điện Biên; Cư trú tại: Tổ D, thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Trần Thanh C, sinh năm: 1928 và con bà Phạm Thị M, sinh năm 1938; Bị cáo có vợ là Lường Thị D, sinh năm 1994 và có 03 người con, con lớn nhất, sinh năm 1993, con nhỏ nhất, sinh năm 2017; Tiền sự:

Không; Tiền án: Không; tạm giữ từ ngày 11/11/2020; tạm giam từ ngày 14/11/2020 cho đến ngày xét xử; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 11/11/2020, Trần Thanh T một mình đi bộ từ bãi cà phê của anh trai là Trần Thanh C1 ở bản T, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên ra bản T, xã Ẳ, huyện M mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực bản T, xã Ẳ, T gặp một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên và địa chỉ ở đâu đang đứng cạnh đường; T đã mua của người đàn ông dân tộc Thái 10 viên Hồng phiến được gói bằng túi nilon màu xanh với giá 200.000đ. Sau khi mua được Hồng phiến, T cầm trên tay phải đi về lán cà phê; khi về đến lán cà phê, T lấy 2 viên Hồng phiến sử dụng, số còn lại cho vào túi quần bên phải đang mặc. Đến khoảng 17 giờ, ngày 11/11/2020, tổ công tác Công an huyện M đi vào trong lán cà phê của T, yêu cầu T có liên quan đến ma túy thì giao nộp cho Công an. T đã tự nguyện lấy 01 gói túi nilon màu xanh bên trong có 08 viên nén màu hồng ra giao nộp cho Công an. Tổ công tác, Công an huyện M, tỉnh Điện Biên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói túi nilon màu xanh bên trong có 08 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 11/11/2020 thì vật chứng thu giữ của Trần Thanh T gồm: 08 viên nén màu hồng có khối lượng:

0,8g, đồng thời lấy 0,09g làm mẫu gửi giám định; bản kết luận giám định số 995/GĐ – PC09, ngày 19/11/2020 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: 0,8g là Methamphetamine.

Tại phiên tòa, Trần Thanh T đã thừa nhận ngày 11/11/2020 đi mua 08 viên Methamphetamine có trọng lượng là: 0,8g Methamphetamine để sử dụng như nội dung Cáo trạng.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKS-MA ngày 23/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mường Ảng để xét xử bị cáo Trần Thanh T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 điều 65 của BLHS xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử trả tự do cho bị cáo Trần Thanh T tại phiên tòa ngày hôm nay, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu để tiêu hủy 0,71 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản Cáo trạng cũng như bản luận tội của VKSND huyện Mường Ảng, bị cáo không có tranh luận gì. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nội dung vụ án: Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Trần Thanh T đã khai và công nhận: Hồi 17 giờ 00 phút ngày 11/11/2020, tại lán cà phê thuộc bản T, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên, bị cáo bị bắt quả tang đang tàng trữ trái phép 0,8 gam Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 05/CT-VKSMA, ngày 23/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố.

Hành vi của Trần thanh T tàng trữ trái phép: 0,8g Methamphetamine, với mục đích sử dụng, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Trần Thanh T đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine.... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam".

[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, được quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.

[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự , hình phạt: Bị cáo Trần Thanh T sinh ra và lớn lên tại thị trấn M, huyện M. Năm 1992 kết hôn với chị Tạ Thị L, sinh năm 1974 và có 02 người con chung; năm 2000 ly hôn với chị Tạ Thị L; Năm 2014, kết hôn với chị Lường Thị D và có 01 người con chung, sinh năm 2017. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; trong lao động được tặng giấy khen của UBND huyện và bằng khen của UBND tỉnh Điện Biên nên nhân thân của bị cáo là tốt. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra Công an huyện Mường Ảng trong việc phát hiện đối tượng Trương Quang T1 có hành vi mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn huyện Mường Ảng; tự nguyện giao nộp ma túy cho Công an khi chưa bị phát hiện là đầu thú; Bố bị cáo là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì; nên Hội đồng xét xử cần xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51của BLHS năm 2015. Bị cáo không vi phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.

Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo đã ăn năn hổi cải về hành vi phạm tội của mình, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt. Để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động trong cộng đồng xã hội và cũng thể hiện chính sách giáo dục hơn trừng trị của pháp luật hình sự Việt Nam đối với người phạm tội. Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự phạt tù cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và tạo điều kiện cho bị cáo làm ăn sinh sống, nuôi bản thân và gia đình.

Ngoài hình phạt chính, qua xác minh thì bị cáo thực sự khó khăn không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[ 5] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy: 0,8g Methamphetamine đã trích mẫu giám định là 0,09g, còn lại 0,71g Methamphetamine thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[ 6] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 7] Về án phí: : Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[ 8] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng là có cơ sở pháp luật nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 15 ( Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/01/2021).

Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả tự do cho bị cáo Trần Thanh T tại phiên tòa ngày hôm nay, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Giao bị cáo Trần Thanh T cho UBND thị trấn M, huyện M, tỉnh Điện Biên giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân thị trấn M để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Trần Thanh T thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên thì Ủy ban nhân dân thị trấn M - huyện M - tỉnh Điện Biên có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện M để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp Trần Thanh T thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019 và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy 0,71 gam Methamphetamine.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo T phải chịu số tiền: 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về