TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 28/2020/HS-PT NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 14/9/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Khuất Văn Đ và Nguyễn Chí L do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2020/HS-ST ngày 29/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Các Bị cáo kháng cáo:
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Nhân viên Cơ sở cai nghiện ma túy thành phố L; là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (đã có quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng); Trình độ văn hoá: Lớp 10/10;
Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.
Con ông Khuất Văn D và bà Nguyễn Thị X; Bị cáo có vợ là Lê Thị T và 02 con;
Bị cáo hiện nay đang chấp hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại Tổ 12, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai - (Có mặt tại phiên tòa).
2. Nguyễn Chí L (tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 19/10/1982 tại H – Lào Cai.
ĐKHKTT: Thôn H2, xã V, thành phố L, tỉnh Lào Cai;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Nhân viên Ban quản lý Chợ K1, thành phố L; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12;
Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.
Con ông Nguyễn Văn T1 và bà Vương Thị H3; Bị cáo có vợ là Đào Thị Thanh Th và 01 con;
Bị cáo hiện nay đang chấp hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thôn H2, xã V, thành phố L, tỉnh Lào Cai. (Có mặt tại phiên tòa).
* Người bào chữa cho bị cáo Khuất Văn Đ:
1. Ông Nguyễn Thanh H4 - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV L1, Đoàn Luật sư TP Hà Nội.
Địa chỉ: Số 38/295, M, quận Tr, Thành Phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
2. Ông Chu Bá T2 - Luật sư Công ty Luật TNHH T3, Đoàn Luật sư TP Hà Nội.
Địa chỉ: Số 481, đường K2, phường Q, quận G, Thành Phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau: Bị cáo Khuất Văn Đ là Trưởng ban quản lý chợ K1, thành phố L từ ngày 06/02/2013. Từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2016, Khuất Văn Đ đã chỉ đạo Tổ bảo vệ của Ban quản lý chợ K1 kẻ chia các ô ở khu vực phía hành lang đường Ng ngoài cổng chợ K1 để các hộ bán hàng hoa quả không cố định (Các hộ này không có hợp đồng thuê địa điểm với Ban quản lý chợ). Sau đó Khuất Văn Đ đã chỉ đạo Nguyễn Chí L là nhân viên bảo vệ Ban quản lý chợ hàng tháng tiến hành thu tiền phí đối với các hộ kinh doanh hoa quả này. Tổng số tiền thu được là: 62.100.000 đồng. Số tiền thu được, Đ không nộp vào ngân sách mà chỉ đạo Nguyễn Chí L chi vào việc tiếp khách, hiếu, hỷ, ốm đau, mua, sửa chữa một số vật dụng cho Ban quản lý chợ nhưng không có hóa đơn, chứng từ quyết toán. Toàn bộ số tiền chi Nguyễn Chí L khai ghi vào 01 quyển sổ (quyển sổ này không thu giữ được). Việc chi tiêu số tiền trên ngoài Đ và L ra, không có ai biết. Đến tháng 7/2016, do có đơn khiếu nại của công dân nên bị cáo Đ đã chỉ đạo Nguyễn Chí L không thu phí của các hộ trên nữa.
Ngoài ra, Khuất Văn Đ còn trực tiếp chỉ đạo và giao khoán cho Tổ bảo vệ thuộc Ban quản lý chợ K1 đi thu phí chợ của các hộ kinh doanh không cố định ở trong khu vực chợ. Khi thu tiền, có ấn chỉ vé, tiền nộp về Ban quản lý chợ K1 với số tiền là 9.000.000 đồng/tháng (có hợp đồng giao khoán). Số tiền này tổ bảo vệ nộp cho bà Nguyễn Thị Th2 là thủ quỹ của Ban quản lý chợ K1. Sau đó, Khuất Văn Đ đã chỉ đạo cho thủ quỹ và chị Nguyễn Thúy A là kế toán của Ban quản lý chợ làm quyết toán chứng từ nộp vào ngân sách Nhà nước 3.600.000 đồng/tháng; trả tiền vệ sinh môi trường 1.000.000 đồng/tháng. Số tiền còn lại 4.400.000 đồng/tháng, Khuất Văn Đ chỉ đạo thủ quỹ quản lý, sử dụng vào mục đích chi tiêu chung của Ban quản lý chợ K1 như đám hiếu, hỷ, tiếp khách, ngày lễ, ngày tết cho cán bộ, viên chức của Ban quản lý chợ K1 với mức chi từ 200.000 đồng đến 1.000.000 đồng, chi không có hóa đơn, chứng từ. Theo lời khai, khi chi bà Th2 có ghi vào một quyển sổ (quyển sổ này không thu được). Tuy nhiên, việc thu chi số tiền này được công khai, cán bộ, nhân viên Ban quản lý chợ đều biết.
Đến tháng 10/2016, Thanh tra thành phố L đã thanh tra việc thu, chi tài chính từ tháng 01/2015 đến tháng 10/2016 của Ban quản lý chợ K1 và kết luận các sai phạm của Ban quản lý chợ K1. Thanh tra thành phố L đã thu hồi để nộp ngân sách nhà nước tổng số tiền 166.596.000 đồng.
Bản án số 42/2020/HS-ST ngày 29/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai đã xét xử: Tuyên bố bị cáo Khuất Văn Đ và bị cáo Nguyễn Chí L phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 356; Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Khuất Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Chí L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về hình phạt bổ sung, giải quyết vật chứng và án phí theo quy định.
Ngày 01/6/2020, bị cáo Nguyễn Chí L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo; Ngày 12/6/2020, bị cáo Khuất Văn Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin hưởng án treo và đề nghị xem xét lại khoản tiền truy thu.
* Tại phiên toà:
Bị cáo Khuất Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như án sơ thẩm đã nhận định. Bị cáo Khuất Văn Đ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo Nguyễn Chí L cho rằng bản thân bị cáo không biết việc làm là sai phạm, bị cáo chỉ thực hiện theo chỉ đạo của bị cáo Khuất Văn Đ nên bị cáo không phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HS-ST ngày 29/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Người bào chữa cho bị cáo Khuất Văn Đ: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HSST ngày 29/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về Hành vi phạm tội của các bị cáo: Bị cáo Khuất Văn Đ là Trưởng ban quản lý chợ K1, thành phố L từ ngày 06/02/2013. Từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2016, Khuất Văn Đ đã chỉ đạo Tổ bảo vệ của Ban quản lý chợ K1 kẻ chia các ô ở khu vực phía hành lang đường Ng ngoài cổng chợ K1 để các hộ bán hàng hoa quả không cố định (Các hộ này không có hợp đồng thuê địa điểm với Ban quản lý chợ). Sau đó Khuất Văn Đ đã chỉ đạo Nguyễn Chí L là nhân viên bảo vệ Ban quản lý chợ hàng tháng thu tiền phí đối với các hộ kinh doanh hoa quả này. Tổng số tiền Nguyễn Chí L thu được là: 62.100.000đ. Số tiền thu được, Khuất Văn Đ không cho nộp vào ngân sách mà chỉ đạo Nguyễn Chí L để ngoài sổ sách và đã chi tiêu hết.
Vì vậy, các bị cáo Khuất Văn Đ và Nguyễn Chí L bị Toà án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và xử phạt Khuất Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, Nguyễn Chí L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù theo quy định tại khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự.
Tịch thu số tiền 28.900.000 đồng các bị cáo nộp (Đ nộp 14.000.000đ; L nộp 14.900.000đ) tại phiên tòa để sung vào ngân sách Nhà nước.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[2.1] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị xem xét lại số tiền nộp ngân sách của bị cáo Khuất Văn Đ:
Bị cáo Khuất Văn Đ là người có nặng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết pháp luật, nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân, bị cáo Đ đã bất chấp pháp luật, lợi dụng là Trưởng ban quản lý chợ, cố ý thực hiện hành vi phạm tội, chỉ đạo Nguyễn Chí L thu của các hộ kinh doanh không cố định khu vực ngoài cổng chơ K1 (Thuộc quyền quản lý của Ban quản lý chợ K1), để ngoài sổ sách và chi tiêu hết số tiền 62.100.000 đồng.
Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm vào công tác quản lý nhà nước về kinh tế được pháp luật hình sự bảo vệ.
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Khuất Văn Đ là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án, bị cáo Nguyễn Chí L là người đồng phạm với Khuất Văn Đ.
Tại khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Mặc dù bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền mà các bị cáo chiếm đoạt nhưng xét thấy mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đối với bị cáo Đ mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt là đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không đưa ra được tình tiết, chứng cứ nào mới để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Về khoản tiền bị truy thu, xét thấy các bị cáo chiếm đoạt 62.100.000 đồng, quá trình thanh tra, các bị cáo đã nộp lại số tiền là 33.200.000 đồng, còn lại 28.900.000 đồng, đây là khoản tiền do phạm tội mà có nên phải tịch thu của các bị cáo để nộp ngân sách nhà nước. Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đã nộp và cấp sơ thẩm đã tuyên tịch thu để nộp ngân sách nhà nước là đúng quy định.
[2.2] Về kháng cáo của bị cáo Nguyễn Chí L: Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bị cáo Nguyễn Chí L là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ việc làm sai trái của bị cáo Đ nhưng không ngăn cản hay có ý kiến gì đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà khi được Đ giao việc, bị cáo đã trực tiếp thu tiền, trực tiếp quản lý và chi tiêu hết khoản tiền mà bị cáo đã thu của các hộ kinh doanh. Hành vi của bị cáo là hành vi đồng phạm với bị cáo Đ. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội phạm hình sự, không oan. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi khi bị cáo Đ chỉ đạo như thu tiền, quản lý tiền thu được, chi tiêu theo chỉ đạo của bị cáo Đ đối với khoản tiền mà bị cáo đã thu. Vì vậy bị cáo kháng cáo kêu oan là không có căn cứ.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy kháng cáo của các bị cáo là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
[3] Ngoài ra, trong thời gian làm Trưởng ban quản lý chợ, Khuất Văn Đ còn trực tiếp chỉ đạo và giao khoán cho Tổ bảo vệ thuộc Ban quản lý chợ K1 đi thu phí chợ của các hộ kinh doanh không cố định ở trong khu vực chợ. Khi thu tiền, có ấn chỉ vé, tiền nộp về Ban quản lý chợ K1 với số tiền là 9.000.000 đồng/tháng (có hợp đồng giao khoán). Số tiền này tổ bảo vệ nộp cho bà Nguyễn Thị Th2 là thủ quỹ của Ban quản lý chợ K1. Sau đó, Khuất Văn Đ đã chỉ đạo cho thủ quỹ và chị Nguyễn Thúy A là kế toán của Ban quản lý chợ làm quyết toán chứng từ nộp vào ngân sách Nhà nước 3.600.000 đồng/tháng; trả tiền vệ sinh môi trường 1.000.000 đồng/tháng. Số tiền còn lại 4.400.000 đồng/tháng, Khuất Văn Đ chỉ đạo thủ quỹ quản lý, sử dụng vào mục đích chi tiêu chung của Ban quản lý chợ K1 như đám hiếu, hỷ, tiếp khách, ngày lễ, ngày tết cho cán bộ, viên chức của Ban quản lý chợ K1 với mức chi từ 200.000 đồng đến 1.000.000 đồng, chi không có hóa đơn, chứng từ. Theo lời khai, khi chi bà Th2 có ghi vào một quyển sổ (quyển sổ này không thu được). Tuy nhiên, việc thu chi số tiền này được công khai, cán bộ, nhân viên Ban quản lý chợ đều biết.
Đến tháng 10/2016, Thanh tra thành phố L đã thanh tra việc thu, chi tài chính từ tháng 01/2015 đến tháng 10/2016 của Ban quản lý chợ K1 và kết luận các sai phạm của Ban quản lý chợ K1. Thanh tra thành phố L đã thu hồi để nộp ngân sách nhà nước, trong đó có 93.800.000 đồng mà bị cáo đã chỉ đạo để ngoài sổ sách và chi tiêu cá nhân hết.
Với những hành vi trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
* Đối với hành vi thu tiền đối với các hộ kinh doanh bên ngoài hành lang chợ của các bị cáo:
- Các bị cáo thực hiện hành vi không phải vì mục đích vụ lợi. Hành vi của các bị cáo là hành vi chiếm đoạt. Số tiền thu của các hộ kinh doanh tại các ô ngoài khuôn viên chợ theo quy định phải được nộp ngân sách nhà nước (Phải được nộp vào tài khoản của Ban quản lý chợ vì khu vực đó là phần đất đã giao cho Ban quản lý chợ theo quy định, phần đất này không phải hành lang giao thông). Tuy nhiên các bị cáo đã không nộp mà tự ý sử dụng hết các khoản tiền trên.
Với hành vi trên của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có dấu hiệu của tội “Tham ô tài sản”.
* Đối với hành vi sử dụng số tiền 4.400.000 đồng/tháng (Tổng số tiền là 93.800.000 đồng).
Đấy là số tiền các bị cáo thu được của các hộ kinh doanh trong chợ, theo quy định số tiền trên phải được nhập vào quỹ của Ban quản lý chợ vào nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên bị cáo Đ đã chỉ đạo Nguyễn Thị Th2 là thủ quỹ của Ban quản lý chợ K1 và chị Nguyễn Thúy A là kế toán của Ban quản lý chợ không nhập quỹ và đã chi tiêu hết.
Với hành vi trên của bị cáo Khuất Văn Đ có dấu hiệu của tội “Tham ô tài sản”. Cấp sơ thẩm không xem xét xử lý bị cáo là bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo và bỏ lọt người phạm tội (Các đồng phạm).
Do bản án sơ thẩm không có kháng nghị, các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ, xin hưởng án treo và kháng cáo không phạm tội nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể xem xét về tội “Tham ô tài sản” đối với các bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội để xem xét hủy án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra, truy tố các bị cáo về tội “Tham ô tài sản”.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự:
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 42/2020/HS-ST ngày 29/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai như sau: Tuyên bố bị cáo Khuất Văn Đ và bị cáo Nguyễn Chí L phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Căn cứ khoản 1 Điều 356; Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Khuất Văn Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Căn cứ khoản 1 Điều 356; Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Về vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu số tiền 28.900.000 đồng các bị cáo nộp tại phiên tòa sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước (Theo biên bản tạm giữ ngày 29/5/2020 của TAND thành phố L).
Về án phí phúc thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ của Quốc Hội: Bị cáo Khuất Văn Đ, bị cáo Nguyễn Chí L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt bổ sung, vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
2. Kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân Cấp Cao tại Hà Nội xem xét hủy án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra, truy tố các bị cáo về tội “Tham ô tài sản”.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 28/2020/HS-PT ngày 14/09/2020 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Số hiệu: | 28/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về