Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 29/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số: 176/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Tổ 3, ấp B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Bồ Thị Gái D, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Tổ 3, ấp B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 11 năm 2020 và bản tự khai ngày 18 tháng 11 năm 2020, ông Nguyễn Văn C trình bày:

Ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D tự nguyện tìm hiểu nhau khoảng 03 năm, được cha mẹ hai bên đồng ý, sống chung với nhau từ năm 2000 và đăng ký kết hôn ngày 31/12/2000 tại Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ, huyện Tân Uyên (Nay là huyện Bắc Tân Uyên), tỉnh Bình Dương. Sau khi kết hôn, thời gian đầu giữa ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và không tôn trọng lẫn nhau. Hiện tại, giữa ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D không còn sống chung với nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên ông Nguyễn Văn C yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn C yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà Bồ Thị Gái D.

Về con chung: Ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D có 02 người con chung tên Nguyễn Thanh A, sinh ngày 29/6/2001 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 16/11/2003. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông Nguyễn Văn C yêu cầu Tòa án giao con chung tên Nguyễn Thanh T cho ông được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và không yêu cầu bà Bồ Thị Gái D phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con chung tên Nguyễn Thanh A đã đủ 18 tuổi nên ông Nguyễn Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 18 tháng 11 năm 2020, bà Bồ Thị Gái D trình bày:

Bà Bồ Thị Gái D thống nhất với phần trình bày của ông Nguyễn Văn C về thời gian tìm hiểu, thời gian chung sống. Sau khi kết hôn, bà D và ông C chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Hiện tại, giữa bà Dư và ông C không còn sống chung với nhau, giữa hai người không có biện pháp để hàn gắn tình cảm. Bà D xác định vẫn còn tình cảm với ông C nên trước yêu cầu xin ly hôn của ông C thì bà D không đồng ý.

Về con chung: Bà Bồ Thị Gái D và ông Nguyễn Văn C có 02 người con chung tên Nguyễn Thanh A, sinh ngày 29/6/2001 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 16/11/2003. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, bà D yêu cầu Tòa án giao con chung tên Nguyễn Thanh T cho ông C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và bà D không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con chung tên Nguyễn Thanh A đã đủ 18 tuổi nên bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Bồ Thị Gái D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự chấp hành đúng quy định của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

Về tố tụng:

[1] Ông Nguyễn Văn C có đơn yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bà Bồ Thị Gái D. Bà Bồ Thị Gái D đang cư trú tại Tổ 3, ấp B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D tự nguyện tìm hiểu, được gia đình hai bên đồng ý, tiến đến hôn nhân, sống chung với nhau từ 2000 và đăng ký kết hôn ngày 31/12/2020 tại Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ huyện Tân Uyên (Nay là huyện Bắc Tân Uyên), tỉnh Bình Dương, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Ông Nguyễn Văn C cho rằng thời gian đầu giữa ông và bà D chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2016 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, hai người cũng không có biện pháp hàn gắn tình cảm. Bà Bồ Thị Gái D cũng thừa nhận quá trình chung sống giữa vợ chồng cũng có những mâu thuẫn nhất định nhưng bà D vẫn còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn với ông C. Tại biên bản xác minh ngày 02/12/2020 thể hiện, ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D là vợ chồng. Trong quá trình chung sống giữa ông C và bà D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Hiện tại, giữa ông C và bà D không còn sống chung với nhau, gia đình hai bên đã vận đồng để hai người hàn gắn lại tình cảm nhưng không có kết quả.

[5] Xét quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên tình yêu thương, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự quan tâm và chăm sóc lẫn nhau. Ông C và bà D không tìm ra được tiếng nói chung, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và giữa hai người không có biện pháp để hàn gắn tình cảm, hai người không còn sống chung với nhau nên ông C yêu cầu ly hôn với bà D là có cơ sở, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[6] Về con chung: Ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D có 02 người con chung tên Nguyễn Thanh A, sinh ngày 29/6/2001 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 16/11/2003. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông C và bà D cùng yêu cầu Tòa án giao con chung tên Nguyễn Thanh T cho ông C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và bà D không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con chung tên Nguyễn Thanh A đã đủ 18 tuổi nên ông C, bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của ông C và bà D là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C là có căn cứ.

[9] Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn C phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C đối với bà Bồ Thị Gái D về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn C được ly hôn với bà Bồ Thị Gái D.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thanh T, sinh ngày 16/11/2003 cho ông Nguyễn Văn C được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và bà Bồ Thị Gái D không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con chung tên Nguyễn Thanh A, sinh ngày 29/6/2001 đã đủ 18 tuổi, các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể giải quyết việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi đương sự có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn C và bà Bồ Thị Gái D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn C phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0031211 ngày 12/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 29/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:28/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về