Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 114/2020/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trƣơng Thị Trúc L; Sinh năm 1985; Địa chỉ: Số 0 , ấp T A 4, xã T T T, huyện T Đ, tỉnh S T (Vắng mặt – có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Trần Văn C; Sinh năm 1979; Địa chỉ: Ấp Th A 4, xã T T T, huyện T Đ, tỉnh S T (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Trương Thị Trúc L trình bày:

Bà Trúc L với ông C kết hôn với nhau năm 2004. Ông bà đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T T T, huyện T Đ, tỉnh S T và được Ủy ban nhân dân xã T T T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 13 ngày 04 tháng 02 năm 2004. Ông bà chung sống hạnh phúc cho đến tháng 9 năm 2015 thì phát sinh sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông C không lo lắng cho vợ con nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Hai người không còn chung sống với nhau từ tháng 02 năm 2020.

Trong quá trình chung sống, bà Trúc L với ông C có hai con chung tên Trần Thị Mỷ T, sinh ngày 01/01/2006 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/6/2012. Hiện cả hai đang sống cùng bà Trúc L.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay bà Trương Thị Trúc L yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn C.

- Về con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con. Không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần Văn C không có lời trình bày do vắng mặt.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý số 114/TB-TLVA ngày 09 tháng 6 năm 2020, tống đạt hợp lệ cho bị đơn ông Trần Văn C nhưng ông C không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Trúc L. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ hai lần đối với ông C để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông C đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã lập biên bản về việc vắng mặt ông C và không tiến hành hòa giải được và ông C cũng không có lời khai trong hồ sơ vụ án. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Trương Thị Trúc L ly hôn với ông Trần Văn C. Về con chung: Giao hai con cho bà Trúc L trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục, ông C không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bà Trương Thị Trúc L và ông Trần Văn C đều vắng mặt nhưng nguyên đơn bà Trúc L có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, còn ông C mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với bà Trúc L và ông C.

[2] Về nội dung: Nguyên đơn bà Trương Thị Trúc L vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án cho ly hôn với ông Trần Văn C và giành quyền nuôi con. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Trương Thị Trúc L với ông Trần Văn C là hôn nhân hợp pháp (hai người có đăng ký kết hôn). Trước khi kết hôn hai người có tìm hiểu nhau trước, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Hai người chung sống hạnh phúc cho đến tháng 9 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông C không lo lắng cho vợ con nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Hai người không còn chung sống với nhau từ tháng 02 năm 2020. Thời gian ly thân vợ chồng không ai tới lui, chăm sóc nhau. Xét thấy tình trạng hôn nhân của hai người đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà Trúc L yêu cầu được ly hôn với ông C là có căn cứ được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Cháu Trần Thị Mỷ T, sinh ngày 01/01/2006 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/6/2012 đang sống cùng bà Trúc L. Vào ngày 26/6/2020, tại Tòa án hai cháu trình bày có nguyện vọng được sống với mẹ nếu cha và mẹ cháu ly hôn. Bà Trúc L yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi hai con. Xét thấy, bà Trúc L có đủ điều kiện nuôi con nên yêu cầu này là có căn cứ chấp nhận được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con do bà Trúc L không yêu cầu nên ông C không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Bà Trúc L trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về nợ chung: Bà Trúc L trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà Trúc L yêu cầu nên bà Trúc L phải chịu theo luật định.

[9] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Trương Thị Trúc L.

- Về hôn nhân: Bà Trương Thị Trúc L được quyền ly hôn với ông Trần Văn C.

- Về con chung: Giao cháu Trần Thị Mỷ T, sinh ngày 01/01/2006 và Trần Quốc K, sinh ngày 14/6/2012 cho bà Trương Thị Trúc L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông Trần Văn C không phải cấp dưỡng cho con. Ông C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông C lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Trúc L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông C. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn bà Trương Thị Trúc L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2017/0002142 ngày 04/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T Đ, tỉnh S T. Như vậy bà Trúc L đã nộp xong án phí.

- Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về