Bản án 28/2018/HS-ST ngày 29/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 28/2018/HS-ST NGÀY 29/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2017/TLST- HS ngày 27 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Thị N; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1975 tại: Xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tòng Văn S, (đã chết) và bà Tòng Thị Đ, sinh năm 1953; có chồng là Lò Văn V, sinh năm 1973, có 03 người con con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2002; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa lần nào bị Tòa án xét xử; chưa lần nào bị xử phạt hành chính; bị bắt tạm giữ ngày từ ngày 26/10/2017, tạm giam ngày 29/10/2017, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ ngày 26/10/2017, tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản C, xã Q, huyện T, phát hiện bắt quả tang thu giữ của bị cáo Tòng Thị N 01 (một) gói Heroine, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật, vùng phụ cận đối với bị cáo. Quá trình khám xét Cơ quan điều tra không thu giữ được ma túy, tạm giữ số tiền 870.000đ (tám trăm bảy mươi nghìn đồng) và dẫn giải bị cáo về trụ sở Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Tòng Thị N đã khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 25/10/2017, bị cáo Tòng Thị N một mình đi bộ chơi tại bản C, xã Q, khi đang đi trên đường, bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái, không biết tên, tuổi, địa chỉ đang đứng ở ven đường. Nhìn thấy bị cáo, người đàn ông chủ động hỏi “Chị có mua Heroine không?”, bị cáo trả lời “Có, bán cho chị một trăm nghìn Heroine đi, chị đem về cho lợn, gà ăn?”. Người đàn ông lấy trong người ra 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa Heroine đưa cho bị cáo, bị cáo nhận gói Heroine rồi lấy 100.000 đồng đưa cho người đàn ông, nhận tiền xong người đàn ông đi đâu bị cáo không biết. Việc trao đổi, mua bán Heroine lúc đó chỉ có bị cáo và người đàn ông này biết với nhau, ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Sau khi mua được Heroine, bị cáo N mang về nhà cất giấu trong túi áo khoác bị cáo mặc để khi nào lợn, gà trong gia đình bị dịch bệnh thì đem ra cho ăn, nhưng chưa kịp cho lợn, gà ăn. Đến 17 giờ ngày 26/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đến kiểm tra, bị cáo đã tự giác giao nộp 01 gói Heroine cho Cơ quan Công an.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 27/10/2017 đã xác định 01 gói chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Tòng Thị N có khối lượng 0,49 gam. Tại bản Kết luận giám định số 100/GĐ - PC54 ngày 21/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự

Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của bị cáo Tòng Thị N là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại phiên tòa bị cáo Tòng Thị N một lần nữa đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án như đã nêu ở trên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, Kết luận điều tra.

Tại bản Cáo trạng số: 08/QĐ-VKS-HS ngày 26 tháng 12 năm 2017, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Tòng Thị N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội. Vì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị tịch thu tiêu hủy một phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,41 gam Heroine; đối với số tiền 870.000đ (tám trăm bảy mươi nghìn đồng) Công an đã tạm giữ vào ngày 26/10/2017, do bị cáo sản xuất nông nghiệp, không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị trả lại cho bị cáo. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào khoảng hồi 15 giờ ngày 25/10/2017 bị cáo Tòng Thị N mua 01 gói Heroine có khối lượng 0,49 gam, giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng) mục đích để sử dụng chữa bệnh cho gia súc, gia cầm, nhưng bị cáo chưa kịp sử dụng bị Công an bắt quả tang thu giữ. Bị cáo khai mục đích sử dụng Heroine thay cho thuốc thú ý chữa bệnh cho gia súc, gia cầm là không có căn cứ; bởi chưa có khoa học nào chứng minh Heroine thay cho thuốc thú y chữa bệnh cho gia súc, gia cầm, lời khai về mục đích của bị cáo nhằm chối tội. Tuy nhiên, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì vậy Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Tòng Thị N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo phạm tội trước ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội thì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét quyết định mức hình phạt cho bị cáo.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp tiếp tay cho những người chuyên mua bán các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; bị cáo khai mục đích sử dụng Heroine thay cho thuốc thu ý chữa bệnh cho gia súc, gia cầm là chưa thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo 24 tháng đến 30 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.

[7] Đối với người đàn ông dân tộc Thái đã bán Heroine cho bị cáo, nhưng bị cáo không biết tên, địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra không đủ cở sở để điều tra, xác minh làm rõ. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với một phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,41 gam Heroine cần tịch thu tiêu hủy; đối với số tiền 870.000đ (tám trăm bảy mươi nghìn đồng) Công an đã tạm giữ vào ngày 26/10/2017, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7, Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tòng Thị N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tòng Thị N 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 26/10/2017.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,41 gam Heroine; trả lại cho bị cáo số tiền 870.000đ (tám trăm bảy mươi nghìn đồng) theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.

3. Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Căn cứ Khoản 1 Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (29/01/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HS-ST ngày 29/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về