Bản án 28/2018/HS-ST ngày 26/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 28/2018/HS-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2018/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Bị cáo A (A’) - Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1985 tại Bình Định; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ A, khu vực B, phường C, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: B (chết); con bà: C, sinh năm 1966; vợ: D, sinh năm: 1989, con: E, sinh năm: 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/5/2005 bị TAND tỉnh Bình Định xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/9/2007 tại Trại giam D (đã xóa án tích). Bị bắt tạm giữ ngày 18/01/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Định. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17h00’ ngày 18/01/2018 tại phòng A Khách sạn H, thuộc tổ E, khu vực F, phường G, thành phố Q: Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định tiến hành kiểm tra và bắt quả tang A đang cất giữ trong người 02 gói nilon hàn kín, bên trong có chưa các hạt tinh thể không màu ghi là ma túy. A khai nhận 02 gói nilon trên là ma túy “đá”, A mua ở thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng và chia nhỏ đem bán cho các con nghiện kiếm lời.

Ngoài ra vào tháng 11/2017, A vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người phụ nữ tên C (không xác định được địa chỉ, lai lịch) mua ½ hộp 5 ma túy “đá”, khối lượng 2,24gam với số tiền 2.000.000đồng và khoảng ngày 08/01/2018 A tiếp tục vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông tên D (không xác định được địa chỉ, lai lịch) mua ½ hộp 5 ma túy “đá”, khối lượng 2,24gam với số tiền 2.000.000đồng. Sau khi mua ma túy về, A đem chia nhỏ và bán cho các đối tượng nghiện với khối lượng 1,12 gam với số tiền 3.200.000đồng và 01 điện thoại di động, khi bị bắt quả tang thu được 0,224gam, còn lại A đã sử dụng hết. Cụ thể:

- Khoảng tháng 11/2017, A bán cho G (sinh ngày: 1998, trú tại tổ I, khu vực K, phường L, thành phố Q) 02 lần, 02 gói ma túy với khối lượng 0,224 gam, thu 800.000 đồng.

- Từ ngày 12/01/2018 đến ngày 18/01/2018, A bán cho F (Đài Pê-đê, SN: 1979, HKTT: Tổ L, khu vực M, phường N, thành phố Q) 05 lần, 07 gói ma túy với khối lượng 0,784 gam, thu 2.800.000đồng.

- Trưa ngày 18/01/2018, A bán cho B (B té, SN: 1985, trú tại: Tổ G, khu vực H, phường I, thành phố Q) 01 lần, 01 gói ma túy với khối lượng 0,112 gam, thu số tiền 500.000đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 06/GĐ-PC54 ngày 22/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể bên trong 02 gói nilon thu của A là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,224 gam.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKSBĐ ngày 14.5.2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố: A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c Khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo A từ 08 đến 09 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 bì thư được niêm phong; sung công quỹ 02 điện thoại di động và truy thu 2.200.000đồng thu lợi bất chính. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Định, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] A do nghiện ma túy đá mà bản thân lại không có việc làm ổn định nên từ cuối tháng 11/2017 đến đầu tháng 01/2018 A đã mua 02 lần với tổng khối lượng 4,48 gam Methamphetamine (ma túy đá), đã bán 08 lần cho 03 người với 10 gói ma túy có tổng khối lượng 1,12gam thu số tiền là 3.200.000đồng và 01 điện thoại di động, thu lợi bất chính 2.200.000đồng và 01 điện thoại di động. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ căn cứ để xác định bị cáo A đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm b, c Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như Bản cáo trạng số 30/QĐ-KSĐT ngày 14/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố là có căn cứ.

Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển của con người và gây mất trật tự trị an xã hội và sự bất bình trong dư luận nhân dân tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

Xét về nhân thân: Bị cáo A có nhân thân không tốt, đã từng bị kết án nhưng không biết rèn luyện bản thân mà còn phạm tội nên cần phải xem xét nhân thân của bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt có lý, có tình nhằm tạo điều kiện cho bị cáo an tâm cải tạo, sớm hòa nhập với cộng đồng.

 [3] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ:

- 01 (Một) bì thư bên ngoài có ghi 0,072 gam hạt tinh thể Methamphetamine mẫu A1 thu của A còn lại sau giám định, có đóng dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Định. Đây là tang vật của vụ án và chất cấm nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) bì thư bên ngoài có ghi 0,068 gam hạt tinh thể Methamphetamine mẫu A2 thu của A còn lại sau giám định, có đóng dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Định. Đây là tang vật của vụ án và chất cấm nên tịch thu tiêu hủy.

-01 (Một) điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đen, mặt kính nứt, số IMEL: 358995055650799, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của A. Đây là tài sản bị cáo thu lợi bất chính trong việc mua bán chất ma túy nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu VERTU, màu vàng đen, số IMEL: 358549022742385, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của A. Đây là phương tiện để bị cáo liên lạc trong việc mua bán chất ma túy nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Bị cáo A đã thu lợi bất chính số tiền 2.200.000đồng từ việc mua bán trái phép ma túy, đây là số tiền liên quan đến việc phạm tội của bị cáo nên truy thu sung công quỹ Nhà nước.

 [4] Trong vụ án này, bị cáo khai mua ma túy của một người phụ nữ tên C và một người đàn ông tên D ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không xác định được địa chỉ, lai lịch, nên không có căn cứ để xử lý. Đối với anh E (nhân viên lễ tân khách sạn H) có nhận 300.000đồng của F và giao lại cho A, nhưng E không biết số tiền đó là tiền mua, bán ma túy, nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh E là phù hợp.

 [5] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

*/ Áp dụng

Điểm b, c Khoản 2 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015

*/ Xử phạt: Bị cáo A 08 (Tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/01/2018.

2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) bì thư đã niêm phong, bên ngoài có ghi 0,072 gam tinh thể Methamphetamine mẫu A1, còn lại sau giám định, có đóng dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Định.

- 01 (Một) bì thư đã niêm phong, bên ngoài có ghi 0,068 gam hạt tinh thể Methamphetamine mẫu A2, còn lại sau giám định, có đóng dấu tròn niêm phong của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Định.

* Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đen, mặt kính nứt, số IMEL: 358995055650799, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của A.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu VERTU, màu vàng đen, số IMEL:358549022742385, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu của A. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/5/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định và Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bình Định).

- Truy thu đối với bị cáo A số tiền 2.200.000đồng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo để sung công quỹ Nhà nước.

3/ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo A phải chịu 200.000đồng.

4/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HS-ST ngày 26/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về